Hàng ngàn năm chúng
ta phải dùng Hán tự coi như văn tự nước nhà. Từ ấu thơ người xưa đã phải
học Tam thiên tự, Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi… và ở tuổi trưởng
thành thì phải “Tứ thư thục, Ngũ kinh thông” (thuộc Tứ thư và thông Ngũ
kinh). Không nên quên Tứ thư gồm Luận ngữ, Mạnh tử, Đại học, Trung
dung và Ngũ kinh gồm Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân thu, là sách
gối đầu giường của kẻ sĩ muốn thực hiện giấc mơ công hầu khanh tướng. Vì thế,
chữ Hán và văn hóa nòi Hán có giai đoạn đã xâm nhập khá sâu vào
sinh hoạt của kẻ sĩ bị trị.
Thời kỳ độc lập mở
ra một hy vọng mới, một chân trời mới, từ thế kỷ XIII tổ tiên chúng ta đã điển
chế ra Chữ Nôm, và nền Văn học Chữ Nôm của chúng ta phát
triển dần từ Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố đời Trần tới đỉnh cao là
Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du đời Lê mạt-Nguyễn sơ.
Tuy nhiên, Chữ
Nôm vẫn không có cơ hội chính thức thay chữ Hán vì phần lớn các triều
đại còn quá bảo thủ, mang nặng ảnh hưởng văn hóa phương Bắc, đã coi
chữ Hán như phương tiện chính thống để truyền thông từ việc cai trị tới
việc ghi chép lịch sử, địa dư… và ngâm vịnh. Kẻ sĩ ngày xưa quen với chương
trình học hành thi cử “thi thiên, phú bách, văn sách năm mươi”, nghĩa là
“học cho thuộc một ngàn bài thơ, một trăm bài phú Hán và trăm bài văn sách mẫu”
và tụng cho kỹ Bắc sử, là có thể lều chõng tới trường thi nên văn chương
họ sáng tác phần nhiều là khuôn sáo, thù ứng từ nghệ thuật tới ý tứ.
Thời kỳ duy
tân, văn minh Âu Tây tràn vào Đông Á, kẻ sĩ có
cơ hội giũ bỏ xiềng xích cũ.
Tầng lớp trí thức
tiến bộ ở Trung hoa như Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Nghiêm
Phục… hô hào duy tân chế độ chính trị, tiếp đó là
Hồ Thích, Trần Độc Tú…, song song với phong trào Ngũ tứ
vận động (04-05-1917), trong những tờ báo tiến bộ như Tân
thanh niên, phản đối chính quyền hủ bại, đề
xướng cải cách văn học, bãi bỏ cổ văn, nâng cao
thể bạch thoại.
Riêng
đất nước ta, trào lưu duy tân tới rất sớm, cực kỳ sôi
động và lần đầu tiên đã có nho sĩ như
Phan Chu Trinh mạnh dạn đả kích ý thức hệ phong kiến và mang
tư tưởng dân chủ gieo rắc nơi đồng bào cả nước.
Tuy nhiên, kẻ sĩ
cuối thế kỷ XIX ở ta chợt nhận ra thiếu phương tiện truyền thông và truyền cảm
và phổ biến tư tưởng mới nghĩa là thiếu một hệ thống văn tự hữu hiệu.
Dùng chữ
Hán, thứ chữ vay mượn,
để ghi chép và sáng tác khó lòng diễn đạt được tình ý của mình. Sự truyền thông
đã khó và cũng khó tạo ra những tác phẩm siêu việt. Đây là một sự thực mà chúng
ta không cần tìm lời bào chữa.
Cứ nhìn thực tế,
những tác phẩm sáng tác bằng chữ Hán của Nho gia lịch triều Lý,
Trần, Lê có tới hàng chục ngàn bài thơ nhưng chỉ có vài trăm bài được lưu
truyền ghi lại trong Hoàng việt thi tuyển. Nhắc tới thi ca sáng tác bằng
chữ Hán có giá trị của người Việt, ngoài Nguyễn Trãi đời
Lê, Đặng Trần Côn thời Lê mạt… chỉ còn có thơ của Nguyễn Du,
Cao Bá Quát và Nguyễn Khuyến… đời Nguyễn là được đời truyền tụng.
Phần còn lại vì sao mai một hoặc nằm mãi trong thư viện khảo cổ?
Phan Khôi
(1887-1959), một cây
viết gốc Nho nhưng thuộc tầng lớp kẻ sĩ tiến bộ
đầu thế kỷ XX đã tiết lộ lời chỉ trích của một tác giả
Trung hoa về phong cách ưa múa bút đề thơ bằng
chữ Hán của đa số Nho gia ta đời
trước. Cho dù lời chỉ trích có vẻ kênh kiệu và nhìn chung là sai lầm
nhưng cũng đủ để ta suy nghĩ khi chúng ta thiếu
một văn tự dành cho nòi giống Tiên Rồng nên phải học nhờ,
viết mướn ngôn ngữ nước người.
Phan
Khôi kể lại, sách
Dinh hoàn chí lược của Tàu trong chỗ nói về sĩ phu Việt Nam thời
xưa ưa làm thơ chữ Hán đã nhận xét rằng: “Sĩ phu họ tính
ưa làm thơ nhưng có kẻ làm không nên câu mà cũng thích làm”.
Cuối thế kỷ
XIX sang đầu thế kỷ XX, ở ta giỏi chữ Hán mấy ai bằng chí sĩ
Phan Bội Châu (1867-1940). Cụ Phan không những từng là thủ khoa kỳ
thi hương (1901) mà còn là một nhà văn lớn của dân tộc. Thế mà
Phan Bội Châu khi ở Nhật viết Việt Nam vong quốc sử có nhờ
Lương Khải Siêu (1873-1929) viết lời giới thiệu thì họ Lương tuy
ngợi khen tấm lòng của cụ Phan với dân, với nước nhưng
có nói một câu tựa hồ phân bua với độc giả Tàu rằng,
“trong sách nếu có chỗ không được nhã thuần, ấy là vì muốn
để y cho còn cái chân tích của tác giả nên không hề sửa chữa một
chữ nào”.
Lương Khải
Siêu chê Phan Bội
Châu viết văn chữ Hán chưa chuẩn (kém nhã thuẩn).
Điều này chẳng có gì làm giảm giá trị của Việt Nam vong quốc
sử và ngòi bút của tác giả vì cụ Phan là người Việt dĩ nhiên
viết văn Tàu khó có thể đạt tới tiêu chuẩn
chân-thiện-mỹ như thầy trò Khang Lương (Lương là học trò của
Khang Hữu Vy).
Phan
Khôi giải thích: “Tội
không tại người mà cũng không tại chữ. Tội tại người nước này mà dùng chữ nước
kia”. Từ thực tế này Phan Khôi cho rằng: “Một thứ chữ ngoại quốc
nào cũng chỉ hành dụng bởi nhu cầu của thời đại mà thôi, còn muốn
lập nên văn học thì ắt phải là văn tự bản quốc
mới được. Vậy chúng ta nên đồng thanh kêu: hỡi người
Việt Nam trở về với quốc văn!”
Làm sao trở về với
quốc văn?
Trước đây,
kẻ sĩ ưu thời mẫn thế nhận rõ Chữ Nôm rất khẩn
thiết đối với vận mệnh dân tộc nhưng thứ văn
tự này chưa đủ làm võ khí sắc bén về văn hóa cho
một nòi giống hùng cường và quật cường dưới trời Đông
Á như chúng ta.
Thực vậy, Chữ
Nôm cho dù là tài sản, một công trình tim óc của tiền nhân để
lại, nhưng nó lại là một thứ chữ khó học, khó viết nên khó có thể
đại-chúng-hóa. Trong thực tế kẻ giỏi chữ Hán mới dùng
được chữ Nôm.
Chúng ta thử
lấy câu đầu trong Truyện Kiều ghi bằng chữ nôm
để xem cách cấu tạo của thứ chữ Việt ngày xưa tiền nhân ta
đã dùng: “Trăm năm trong cõi người ta.”
Khi chưa có chữ Quốc
ngữ như ngày nay, muốn ghi chữ “trăm”, Nguyễn Du
đã ghép hai chữ Hán là chữ “bách” (chỉ nghĩa: một trăm) và
chữ “lâm” (nghĩa là rừng, nhưng ở đây dùng chỉ cách
đọc vì “lâm” có âm tương tự như “ăm”). Kế
đền chữ “năm” thì ghi làm sao? Cần hiểu rõ “năm”
muốn chỉ số hạng hay năm muốn chỉ “mười hai
tháng”. Nếu “năm” chỉ số hạng thì ghép hai chữ, chữ “ngũ” chỉ
nghĩa, chữ “nam” chỉ âm. Còn “năm” chỉ thời gian thì ghép hai chữ
Hán, chữ “niên” (chỉ năm tháng) và chữ “nam” (chỉ âm). Tương tự chữ
“trong” thì ghép hai chữ Hán (long chỉ âm) và trung (chỉ nghĩa); chữ “cõi” (ghép
chữ “thổ” chỉ nghĩa với chữ “quý” ghi âm ); và chữ “người” thì dùng chữ “ngại”
ghi âm ghép với chữ “nhân” ghi nghĩa. Còn riêng chữ “ta” thì dùng ngay chữ Hán
để ghi vì đọc cùng âm với “ta” của Việt. Cách cấu tạo
xem ra phức tạp và chưa theo quy tắc nhất định (vì chưa
được phổ biến và cải thiện) nên đọc văn
bản Nôm nhiều khi phải đoán xem cổ nhân đã muốn
ghi âm gì trong tiếng Việt.
Đang lúc
cần
canh tân gấp, lại gặp bế tắc về văn tự là nỗi đau đầu
của kẻ sĩ tâm huyết cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX ở
nước ta.
Cơ hội đã
tới. Tiếp xúc với Tây phương chúng ta đã có một thứ
văn tự mới và các nhà văn hóa sáng suốt của ta
đã vội vàng mượn lấy nó để làm thứ chữ của cả nước và
đặt tên nó là Chữ Quốc ngữ.
Tại sao lại gọi là
Chữ Quốc ngữ?
Giáo sư Dương
Quảng Hàm (1898-1946) giảng rằng:
“Chữ quốc ngữ là
một thứ chữ dùng tự mẫu (chữ cái) La mã để phiên âm tiếng ta. Quốc ngữ nghĩa đen
là tiếng nói của nước: vậy cái từ ngữ ấy dùng để gọi thứ chữ mới đặt ra đây, kể
thì không đúng, vì đó là một thứ chữ chứ không phải là một tiếng; nhưng từ ngữ
ấy đã dùng quen rồi không thể đổi được nữa.”
Chữ Quốc ngữ
hình thành từ bao giờ?
Học giả Phạm
Quỳnh (1892-1945) trong loạt bài khảo về chữ Quốc ngữ đăng trên
Nam Phong tạp chí đã viết:
“Chữ quốc ngữ là
do các cố đạo Tây sang giảng đạo bên nước Nam đặt ra vào đầu thế kỷ thứ 17, các
cố đó, người Bồ đào nha có, người Ý đại lợi có, người Pháp có, chắc là cùng nhau
nghĩ đặt, châm chước sửa sang trong lâu năm, chứ không phải do một người nào làm
ra một mình vậy, duy đến khi in ra thành sách thì một ông cố người Pháp là
Alexandre de Rhodes, in một bộ tự điển và một bộ sách giảng đạo bằng chữ quốc
ngữ trước nhất. Vậy thời hai bộ sách đó là hai quyển sách quốc ngữ cổ nhất còn
lưu truyền tới nay.”
Bộ tự
điển mà Phạm Quỳnh đã đề cập là cuốn tự
điển của cố Alexandre de Rhodes có tên là Việt-Bồ-La
(Dictionarium Annamiticum, Lusitanum et Latinum in ở Rome năm
1651). Còn “sách giảng đạo” mà ông chủ Nam
Phong đề cập là “Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép
rửa tội mà vào đạo Thánh đức Chúa
Trời”.
Tác phẩm của cố
de Rhodes, theo lời tác giả, đã dựa vào hai cuốn từ vựng
trước nó liên quan đến tiếng Việt giảng sang tiếng Bồ của
Gaspard de Amaral và Antoine de Barbosa.
Ban đầu chữ Quốc ngữ chỉ
là phương tiện truyền giáo ở Việt Nam của các giáo sĩ thuộc nhiều quốc
tịch Tây phương. Nhưng khi Pháp đặt chế
độ thuộc địa lên đất nước ta, sau
khi chiếm Lục tỉnh Nam kỳ (từ 1862 tới 1867) thì thực dân lại mượn nó làm
phương tiện thông tri chính sách cai trị cho dân bị trị không biết chữ
Pháp hay chữ Hán. Tờ Gia định báo là tờ báo có
một phần chữ Quốc ngữ đầu tiên xuất hiện ở miền Nam
vào ngày 15 tháng Tư 1865 với mục đích cai trị trên.
Giới kẻ sĩ Việt
Nam tha thiết với tiền đồ dân tộc và bén nhạy với sự
đổi mới đã nhanh chóng mượn thứ văn tự
này làm văn tự nước nhà. Chữ Quốc ngữ
đã trở thành phương tiện hữu hiệu giúp nòi Việt trở mình, thoát khỏi ảnh
hưởng phương Bắc và gây dựng được lâu đài
văn học tự chủ của một quốc gia độc lập như
học giả Nguyễn văn Vĩnh (1882-1936) trong bài tựa bản
dịch Tam quốc chí của Phan Kế Bính (1875-1921) xuất hiện vào
năm 1909 đã dự liệu “Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ
Quốc ngữ”.
Chữ Quốc ngữ
thuở ban đầu tới nay đã có những sự cải cách tinh vi
và phong phú hơn gấp bội, nên ghi rất chuẩn cách phát âm của ba miền
đất nước Việt Nam, lại có khả năng
truyền đạt nhiều mặt kể cả khoa học và kỹ thuật, và
đã thực sự biến thành một thứ văn tự
được ngót trăm triệu giống Lạc Hồng trân trọng bảo
tồn và phát huy. Nhờ đâu? Giải thích điểm này, chúng
ta không thể không mượn ý kiến của tác giả Việt Nam Văn Học Sử
Yếu:
“Các giáo sĩ
người Âu đặt ra chữ quốc ngữ, chủ ý là có
được một thứ chữ để viết tiếng ta cho tiện và dùng
trong việc truyền giáo cho dễ. Không ngờ rằng, vì tình thế lịch sử xui nên, thứ
chữ ấy nay trở thành thứ văn tự phổ thông của cả dân tộc Việt
Nam ta. Đành rằng cũng như các công trình do người ta sáng tác, thứ chữ
ấy cũng còn có một vài khuyết điểm, nhưng ta nên nhận
rằng ở trên hoàn cầu này, không có thứ chữ nào tiện lợi và dễ học dễ biết bằng
thứ chữ ấy.”
Có công lớn cho việc
trau dồi chữ Quốc ngữ trở thành một công cụ xứng đáng của
một quốc gia độc lập phải kể Huỳnh Tịnh Của (1834-1907). Học
giả Paulus Của là người có công soạn bộ từ điển
Đại Nam quốc âm tự vị, một bộ tự vị soạn thảo công phu và
giá trị nhất làm nền tảng cho chữ Quốc ngữ.
Bên cạnh học giả họ
Huỳnh không thể quên công trình bác học phổ biến tiếng Việt của
học giả Petrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Petrus Ký và Paulus
Của cũng là những văn gia đầu tiên dùng chữ Quốc ngữ
để trước thuật các loại đoản thiên như
Chuyện giải buồn, Chuyện đời xưa và Chuyện
khôi hài.
Đầu thế kỷ XX phải kể
công của nhóm Đông dương tạp chí (1913-1917) với
Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Phan Kế Bính, Nguyễn
Đỗ Mục và nhóm Nam phong (1917-1934) với Phạm Quỳnh, Nguyễn
Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục… góp phần vào việc phổ biến
chữ Quốc ngữ và luyện câu văn chữ Quốc ngữ cho
tinh tường hơn. Sau đó cũng không quên công của Phan
Khôi trên Phụ nữ tân văn. Nhà báo nàyđã
đề nghị xây dựng mẹo luật cho chữ Quốc ngữ.
Hoàng Yên
Lưu
http://www.thoibao.com/van-hoa/van-nghe/11771-tu-chu-nom-toi-chu-quoc-ngu
No comments:
Post a Comment