CAO HOÀI TRÍ là cựu học sinh trường Trung học Đức Linh, Niên khóa 1970-1973. Hiện cư ngụ tại
Thành phố Biên Hòa, Việt Nam.
***
Cao Hoài Trí
Mùa đông lại về. Một mùa Noel nữa chuẩn bị đến với nhân loại. Nếu như thưở xa xưa Noel chỉ là một lễ lớn dành cho những người có đạo công giáo, mà mọi người thường gọi là Kito giáo. Thì vài chục năm trở lại đây, mặc dù chẳng có qui định nào, nhưng hầu như không những người có đạo, mà kể cả những người ngoại đạo vẫn đón mừng và chung vui lễ Giáng sinh, một cách trang trọng theo sự tín ngưỡng riêng của mình.
Một điều khá lý thú của mùa lễ Giáng sinh hằng năm, bao giờ tiết trời cũng trở lạnh, có khi còn kéo dài vài tuần. Riêng ở các nước phương tây, phần lớn chìm vào giá lạnh, tuyết rơi dầy đặc. Tuy ảnh hưởng không nhỏ cho việc vận chuyễn giao thông, nhất là các vùng có băng tuyết. Nhưng phải nhìn nhận tâm trạng chung là mọi người đều muốn hướng về một đấng linh thiêng, và cầu nguyện cho thế giới luôn bình an. Cuộc sống của nhân loại ngày càng phồn thịnh.
Nhớ lại những năm tháng sau thời kỳ 1975 của miền nam nước Việt, chuyện đi lễ hàng tuần ở các nhà thờ của những người có đạo công giáo, tuy bề ngoài vẫn diễn ra một cách bình thường đối với giáo dân. Nhưng những bài rao giảng của các vị linh mục, chủ yếu chỉ tập trung vào những lời trong kinh thánh. Bởi nội tình của đất nước lúc bấy giờ còn nhiều bất ổn. Chỉ cần vô tình sa vào một vấn đề nào đấy có tính chất chính trị, thì rất dễ bị nhắc nhở. Thậm chí còn bị cấm đứng trên bụt kinh thánh để giảng đạo cho giáo dân.
Đấy là giai đoạn mà không ít người có đạo cứ lo sợ. Nhất là số linh mục ngày càng có tuổi tăng lên, trong khi các linh mục mới được phong thì rất hạn chế. Nhưng qua quá trình đổi mới và sự tiếp cận của giáo phận và tòa thánh VATICAN, dần dần nút thắt được cởi ra. Nhất là các trường tu suất cũng được duy trì, nâng cấp và vận động một số gia đình có đạo, hướng cho các em nam tự nguyện bước theo lời Chúa dạy, nên sau này số linh mục trẻ mới được bổ sung ngày càng nhiều về các giáo xứ, kể cả các vùng sâu, vùng xa cũng được lưu tâm, bắt đầu tiến hành sửa chữa, xây dựng nhiều nhà thờ khá khang trang.
Sự thoáng mở cho hướng phát triển đạo công giáo nói riêng và nhiều đạo khác hình thành bấy lâu nay cũng được nhà cầm quyền ưu ái. Chính vì thế mà ngày nay, hầu như các giáo xứ ngoài sự góp sức của giáo dân trong nước, thì một phần không nhỏ, có khi còn là chủ lực đáng kể số bà con đang sinh sống ở nước ngoài, hàng năm trợ giúp tiền của để các giáo xứ xây dựng mới hoàn toàn.
Biên Hòa là một thành phố, chỉ cách Sài Gòn trên 30km. Nhưng đây là một vùng tập trung người theo đạo công giáo đông nhất miền Nam. Vì thế mỗi mùa lễ Giáng sinh hàng năm, từng giáo xứ một luôn tiến hành trang trí cho khuôn viên nhà thờ họ đạo rất trang trọng từ khu đền thánh, đến hang đá - nơi chúa hài đồng sinh ra được tái tạo theo những mô hình bắt mắt.
Có thể nói ngày nay trước sự phát triển của công nghệ ánh sáng, nên việc trang trí phong cảnh rất thuận lợi cho ngày lễ Giáng Sinh. Tuy nội dung thì mỗi giáo xứ phần lớn giống nhau, nhưng về mặt hình thức thì mỗi nơi lại tùy vào điều kiện kinh phí và cách hướng dẩn của Cha xứ, cộng với Ban hành giáo góp ý thì việc trang trí có sóng động hơn. Cho nên mặc dù ngày lễ chính Giáng Sinh được tổ chức vào đêm 24/12 và các giáo dân vui chơi trong ngày hôm sau. Vì ngày đó kiêng hành xác, nên người có đạo đều nghỉ ngơi, ăn uống, chứ không bao giờ kinh doanh mua bán như ngày thường. Còn những người ngoại đạo, thông lệ sau ngày 22 /12 đã bắt đầu đi đến tham quan một số nhà thờ gần nơi mình sinh sống, để xem mỗi năm cách trang trí có gì mới hơn. Chứ đợi đúng ngày lễ Giáng Sinh thì phần lớn rất ngại ra đường, nhất là thời điểm giữa khuya, khi lượng người tập trung về các hướng, chuyện kẹt xe, tắc nghẽn giao thông...năm nào cũng bị. Đây là nỗi ám ảnh ở các thành phố lớn khi có sự kiện trọng đại hay ngày lễ lớn Giáng Sinh.
Ngoài việc trang trí nơi khu vực giáo xứ, thì vài năm trở lại đây ở nhiều khu tập trung giáo dân sinh sống lại tổ chức thi đua trong từng giáo họ. Bằng việc lấp đặt nhiều kiểu đèn trang trí rất bắt mắt. Làm cho mọi người khi đi vào những khu phố đó cứ ngở không khác gì cảnh tượng đường phố Hồng Kông. Bởi ánh sáng được giăng từ ngõ này qua ngõ khác, sáng rực như lạc vào khu vui chơi nào đấy. Nếu như trước đây chỉ tập trung ở khu giáo dân thôi, thì nay việc trang trí ánh sáng đã được thực hiện phần lớn các con đường phố chính nội ô phố thị. Vì từ lễ Giáng Sinh cho đến tết cổ truyền của đất nước gần kề, nên chuyện trang trí ấy cũng để nhầm tạo cho không khí vui xuân - đón mừng năm mới.
Nhắc đến ngày lễ Giáng Sinh, tôi lại nhớ đến những năm tháng của tuổi thơ khi còn ở vùng đất Dục Mỹ. Có thể nói, tuy đây chỉ là một địa danh, chứ nói đúng tên phải gọi xã Ninh Sim, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Nhưng ngày ấy, nếu bạn hỏi Ninh Sim nằm ở đâu, chắc chắn chẳng ai biết đến. Vậy mà chỉ cần nói đến ba trung tâm huấn luyện bộ binh cộng hòa, thì từ nơi đâu cũng biết - Dục Mỹ đấy.
Chính có ba trung tâm huấn luyện này, mà hàng năm vào dịp lễ Giáng Sinh hay Phật Đản, việc trang trí ở khu nhà thờ hay ngôi chùa tại đây, đều do ba trung tâm đảm nhận. Và tùy từng năm, mỗi trung tâm lại trang trí mỗi điểm khác nhau. Mặc dù đến ngày lễ, chỉ cần nhìn cách trang trí, mọi người cũng có thể đoán được trung tâm nào thiết kế. Đây cũng là điểm nhấn để tạo cho ngày lễ năm đó được tươi vui theo cách trình bày của mỗi trung tâm.
Ngày đó Dục Mỹ dân số không nhiều, chủ yếu là lính tập trung về huấn luyện. Ngoài ra phần lớn các gia đình cư ngụ ở đây cũng là người thân của các binh sĩ cộng hòa đang tại ngũ, nên hầu như người dân đều biết nhau. Và khi ngày lễ Giáng sinh, đa phần mọi người tập trung về khu nhà thờ. Chủ yếu đi xem cách trang trí từ cổng chính vào trong khuôn viên. Điểm dừng chân quan sát nhiều nhất là hang đá, nơi máng cỏ Chúa hài đồng, với cảnh trí thành Bê Lem.
Thấm thoát đã gần 50 năm rời xa Dục Mỹ, nhưng hình bóng ấy tôi nghĩ những ai một thời sinh sống trước năm 1975 ở đây đều nhớ về hình ảnh ấy. Cho dù ngày nay khu vực nhà thờ Dục Mỹ được tu sữa hoành tráng. Nhất là cả khuôn viên đều lót gạch sạch sẽ hơn. Nhưng mỗi người vẫn nhớ về tuổi thơ một thời. Và có lẻ hình bóng ấy mãi không bao giờ quên trong ký ức.
Noel - Giáng sinh về. Mặc dù năm nay trong điều kiện và hoàn cảnh do cơn đại dịch virus Covid-19 chưa được khống chế, tất nhiên sẽ còn ảnh hưởng không nhỏ đến việc tổ chức lễ. Tuy vậy, nhân loại vẫn thành tâm và cầu khẩn mong chúa ban phúc lành cho trần thế, mà Kito giáo bao giờ cũng khằc ghi câu: VINH DANH CHÚA TRÊN CÁC TẦNG TRỜI. BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO NGƯỜI THIỆN TÂM.
Cao Hoài Trí
Ngày 4/12/2020
www.ninh-hoa.com
NHỮNG CẢM NGHIỆM
VỀ NỀN GIÁO DỤC
MIỀN NAM TRƯỚC
1975
Dương Anh Sơn
Cùng với tất cả địa phương khác từ Bến Hải cho đến Cà Mau, quận Ninh Hòa (bây giờ là thị xã) từ 1955 đã hình thành và xây dựng một hệ thống trường tiểu học, trung học công và tư rải rác ở quận lỵ Ninh Hòa và các địa bàn chung quanh như Dục Mỹ, Hòn Khói...Từ chỗ chỉ có các trường tiểu học, Ninh Hòa dần dần đã phát triển các trường trung học đệ nhất cấp và đệ nhị cấp. Chặng đường đó chỉ vỏn vẹn phát triển và tồn tại được 20 năm theo vận mệnh của miền Nam nói chung và của nền giáo dục nói riêng.
Nhiều cây bút của <www.ninh-hoa.com> như Nguyễn Văn Thành, Phạm Trị, Đường Bình, Phó Đức Lâm, Hà Thị Thu Thủy, Trần Đình Nguyên Soái..v..v. đã đề cập rải rác trong nhiều trang mạng này từ khi trang báo ra đời cho đến nay. Đọc và tập hợp những bài viết ấy, chúng ta có thể hình dung được phần nào về hình ảnh và hệ thống các trường học của quận Ninh Hòa, Khánh Hòa từ những người từng gắn bó với nó. Đó là một trong những bệ phóng vào tương lai của công cuộc giáo dục ở miền Nam đang giai đoạn hình thành.
Đúng như người xây dựng chủ nghĩa Marx từng viết :" Con người là sản phẩm của xã hội.." và chúng ta có thể lập luận nối tiếp là xã hội như thế nào thì sẽ sản sinh những con người như thế ấy. Sự sa sút nhiều mặt nhất là văn hóa, đạo đức của nền giáo dục hiện nay bộc lộ sự yếu kém trầm trọng do thiếu vắng những định chế và những định hướng đúng đắn. Nhiều nhà nghiên cứu giáo dục đã tìm hiểu cặn kẽ và cố gắng đưa ra một giải pháp khả thi nào đó hầu cứu vãn tình trạng đi xuống này. Ngay cả những người có công tâm
và tha thiết với nền giáo dục như giáo sư Vương Trí Nhàn, nhà nghiên cứu giáo dục có uy tín trong nước đều nhận ra nhiều điểm ưu việt của nền giáo dục miền Nam trước đây hơn hẳn hệ thống giáo dục chắp vá và phục vụ cho chính trị thay vì cho đất nước, cộng đồng....
Từ một góc độ nhỏ của các trường lớp địa phương như Ninh Hòa và nhìn lại một cách khái quát nền giáo dục của miền Nam trước đây, chúng tôi ôn lại không phải để tiếc nuối vì nó đã là quá khứ. Ở đây, chúng tôi ôn lại để trân trọng những giá trị tốt đẹp và đích thực mà nền giáo dục đó đã trang bị cho chúng ta, giúp chúng ta gìn giữ nhân cách giữa những biến loạn trong cuộc sống hiện nay. Đó là niềm tự hào và hạnh phúc của bất cứ những ai đã từng đi qua các trường lớp thân yêu ấy! Quản Trọng, nhà chính trị thời Tề Hoàn Công đời Xuân Thu của Trung Hoa xưa kia trong sách Quản Tử đã nói : "...Bách niên chi kế mạc chi thụ nhân" (Kế trăm năm không gì bằng trồng người.) Phải mất cả trăm năm với hai hoặc ba thế hệ mới mong xây dựng được tính cách con người có khả năng giữ gìn và phát triển xã hội và đất nước...Hai mươi năm tồn tại của miền Nam chỉ là một chặng đường ngắn trên con đường đưa đất nước sánh vai cùng các nước khác trong khu vực và thế giới với những thành quả nhất định. Hai mươi năm ngắn ngủi ấy, nền giáo dục miền Nam đã huân tập được một cách căn cơ những thế hệ học sinh, sinh viên theo ba tiêu chí : Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng phù hợp với mục tiêu của nhiều nền giáo dục tiến bộ đương thời của nhiều nước như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Tây Đức, Thụy Điển, Na Uy, Anh, Canada, Úc..v..v..
II
Edouard Herriot (1872-1957) từng giữ chức thủ tướng và chủ tịch hạ viện nước Pháp đã để lại một câu nói thời danh: "Văn hóa là cái gì còn lại nơi con người sau khi đã quên hết "(La culture c`est ce qui demeure dans l`homme lorsqu`il a tout oublié. "(Notes et Maximes inédits, trang 46, Hachette, Paris). Và điều tâm đắc này của E. Herriot lại là" cái còn lại" khi ông thấm đậm những giá trị tốt đẹp từ một nhà mô phạm người Nhật Bản -một trong những dân tộc văn minh hàng đầu của nhân loại. (déclare un pedagogue japonnais -p. 46). Nhiều dân tộc khác như Đức, Thụy Điển cũng có những thành ngữ tương tự mà Herriot đã đúc kết. Dài dòng như thế để chúng ta nhìn nhận một sự thật cơ bản trong cách giáo dục để xây dựng con người cho cộng đồng, cho xã hội, cho đất nước khác xa việc mượn giáo dục để phục vụ cho những động cơ chính trị...
Không riêng gì cho Ninh Hòa, khắp miền Nam từ 1959 trở đi sau mấy năm đầu xây dựng nền móng, tất cả các trường học từ tiểu học cho đến đại học đều giảng dạy trên tinh thần của triết lý giáo dục như đã nêu. Dù từ 1960 về sau cuộc chiến tranh tương tàn nam bắc càng lúc càng qui mô, càng ác liệt tác động mạnh mẽ đến sự phát triển giáo dục nhưng miền Nam vẫn đạt được những thành tựu giáo dục nhất định. Nhiều bài tham luận, nhiều biên khảo đã cất công trình bày, tìm hiểu và đánh giá nền giáo dục của miền Nam trước 1975. Riêng tôi và bè bạn, hình ảnh các vị thầy với những bài giảng và các lời dạy qua các thời kỳ đã đi sâu vào tâm khảm của nhiều thế hệ học sinh, sinh viên. Cái gì đã để lại trong tâm hồn những người từng cắp sách đi học dưới các mái trường miền Nam trước đây ?! Những người làm thầy đã dạy cái gì và dạy học trong tư thế nào hầu để lại những dấu ấn trong con người những học sinh, sinh viên khi họ bước vào đời ?
Trên nền tảng của nền giáo dục khoa học mà nhiều thế hệ đi trước đã tiếp nhận từ thời Pháp thuộc, nền giáo dục của miền Nam dần dần có sự thay đổi, có sự điều hướng của một triết lý giáo dục phù hợp, rõ ràng để phát triển:
1/- Nền giáo dục miền Nam đặt nền móng NHÂN BẢN để trồng người (thụ nhân) vì con người có tính người mới thực sự cần thiết cho xã hội. Do đó, nhà trường luôn giáo dục người đi học tôn trọng những giá trị tinh thần, tôn trọng những khác biệt của các cá nhân và bình đẳng trong các cơ hội giáo dục. Sự phân chia giai cấp, lý lịch chính trị, địa phương, tôn giáo, chủng tộc, sự giàu nghèo..v. v.. không được thừa nhận trong các mái trường miền Nam. Vì đặt nền tảng trên tinh thần nhân bản nên việc giáo dục đạo đức, nhân cách sống vẫn là tiền đề cho công cuộc giáo dục. Việc đào tạo con người có tốt đẹp, có phương pháp mới có thể dẫn đến một xã hội tương đối đàng hoàng, tốt đẹp sau này theo đúng qui luật biện chứng : thầy tốt mới có trò tốt, có học sinh tốt, sinh viên tốt mới có được xã hội tốt đẹp; lãnh đạo khôn ngoan, có lòng lo cho dân cho nước mới có thể đưa đất nước đi lên được và ngược lại.... Sự thiếu vắng của tính chất nhân bản trong giáo dục ở trường học và rộng ra ngoài xã hội chắc chắn sẽ dẫn đến sự suy thoái đạo làm người, sự vô cảm, vô lương tâm, vô trách nhiệm, vô liêm sỉ cùng với biết bao sự thiếu trung thực, sự lộn xộn..mà chúng ta vẫn thấy càng lúc càng nhiều hằng ngày là kết quả của một nền giáo dục không có nền tảng..
2/- Trên tinh thần DÂN TỘC, nền giáo dục miền Nam đã đề cao việc gìn giữ và phát triển những giá trị đích thật của lịch sử, văn minh, văn hóa của dân tộc. Việc phát huy tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc luôn được coi trọng trong việc giáo dục khắp các trường lớp miền Nam. Có thể mỗi chúng ta khác chính kiến nhưng mẫu số chung vẫn đặt trên lòng yêu nước, yêu dân tộc với mục tiêu chủ yếu: tổ quốc trên hết, trên tất cả mọi chủ nghĩa xa lạ làm lụn bại dân tộc và đất nước ! Một khi đã đặt nền tảng giáo dục trên tinh thần dân tộc thực sự, những chủ trương phi dân tộc hoặc chủ nghĩa dân tộc cực đoan đều không có chỗ trong việc giáo dục người đi học thành người công dân đàng hoàng được.
3/-Nền tảng giáo dục miền Nam còn được liên kết với tinh thần KHAI PHÓNG, mở ra những chân trời mới, những con đường rộng rãi hơn, tiếp nhận có lựa chọn những tinh hoa của các nền giáo dục tiến bộ khác để học hỏi, bồi đắp và nâng cao sự phát triển nền giáo dục trong nước theo tinh thần khoa học, dân chủ và xây dựng một xã hội văn minh, thịnh vượng.
Ba nền tảng triết lý này liên kết chặt chẽ tạo nên thế chân vạc trong quá trình đào tạo con người sẽ đảm đương việc đưa đất nước đi lên. Từ năm 1967, ba nguyên tắc nền tảng trên được đưa vào hiến pháp trở thành quốc sách của nền giáo dục. Hệ thống trường lớp, sách giáo khoa, các nội dung dạy và học của các giáo chức, học sinh, sinh viên tùy hoàn cảnh mà áp dụng nhưng đều được định hướng từ những nguyên tắc đó.
* *
*
Được học tập và rèn luyện theo những nguyên tắc cơ bản trên nhưng các trường lớp ở khắp miền Nam áp dụng trong việc giảng dạy các bộ môn lại rất linh động, tùy nghi và ít khi rập khuôn trong quá trình dạy học. Tùy theo hoàn cảnh, môi trường, trình độ tâm sinh lý, trình độ các cấp học..., các giáo chức soạn bài dạy trên lớp không hề bị gò ép trong "giáo án", "giáo trình" bao giờ. Nhờ vậy, bài giảng thường sinh động, sự truyền đạt kiến thức vừa khoa học, vừa thấu đáo vừa gợi sự thích thú cho người học nhờ những phương pháp mở rộng đề tài để người học chịu khó suy nghĩ, tìm tòi thêm hầu thấu đáo đề tài.
Những ai từng cắp sách đến trường và sau này chọn lựa làm nghề dạy học đều thấy rõ tinh thần nhân bản là một yếu tố then chốt để tu tập bản thân và truyền giảng cho người học. Những môn khoa học nhân văn như triết học, Việt văn, sử địa, công dân giáo dục có nhiều ưu thế hơn trong việc phát huy những giá trị trong việc xây dựng tâm hồn người học. Tuy nhiên, những môn khoa học tự nhiên vẫn được các nhà giáo có tâm huyết lồng vào những bài học về nhân văn để từng bước nâng cao tâm hồn người học. Tôi vẫn còn nhớ rõ hình ảnh của cô giáo tiểu học Nguyễn Thị Sâm, người Sài Gòn, đã nhẹ nhàng giảng cho những đầu óc non trẻ của chúng tôi về công sức của người lao động chân tay như người nông dân, anh thợ hồ hay bà cụ buôn thúng bán bưng...Thầy Nguyễn Hữu Thạnh của một trường trung học tại Đà Lạt trong các giờ sử địa ở các lớp đệ thất, đệ lục vẫn thường xuyên nêu lên qua các câu chuyện về tình yêu thương cha mẹ, yêu thương những người khốn khổ, tôn trọng và bảo vệ thiên nhiên. Những giờ học môn sử hay địa lý bao giờ cũng được thầy hướng về tình yêu quê hương đất nước. Chưa bao giờ trong các giờ học của tất cả các môn từ tiểu học đến học, những khái niệm "căm thù", "kẻ địch", "kẻ thù" hoặc cách gọi không có văn hóa như "thằng này", "thằng kia"..v..v.. được viết ra từ trang sách giáo khoa hay cửa miệng các thầy cô giáo. Đó là những từ ngữ làm thui chột tâm hồn con người, xa rời tính nhân văn, nhân bản. Những giờ lịch sử, nhất là lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã giúp chúng tôi thấy rõ dã tâm của những đoàn quân xâm lăng của phương bắc xưa kia và thực dân Pháp sau này. Công việc giảng dạy này hầu như thường xuyên, đều khắp các trường học ở miền Nam vì đó là bài học lớn cho sự tồn tại của một đất nước, một dân tộc. Các học trò cũ của thầy Lê Quang Phách (cựu giáo sư sử địa Trung học Trần Quốc Tuấn-Quảng Ngãi và Trung học Ninh Hòa-Khánh Hòa) đã nói rằng họ vẫn nhớ mãi những bài học bổ ích từ lời dạy của thầy về tình người, tình yêu thương đất nước, dân tộc, tình yêu quê hương đậm đà tha thiết...Người dạy học không bao giờ ghét bỏ những ai khác chính kiến trong lớp học, người dạy học và người theo học xa lạ với sự thù hận, căm thù vì đơn giản không ai xem người cùng dân tộc mình, cùng nòi giống là kẻ thù. Đó là tính nhân bản xuyên suốt của nền giáo dục hướng về việc xây dựng con người.
Thầy Lê Văn Ngô (CGS Trung học Trần Bình Trọng -tiền thân của T. H. Ninh Hòa) (1) viết về người thầy của mình là thầy Ngô Văn Cử :" Thầy đã đem hết tâm trí phục vụ việc đào tạo học sinh, phát triển trường lớp. Thầy quý trọng những đồng nghiệp và thương yêu học trò..". Ông Lê Ánh, một bác sĩ người Hòn Khói của Ninh Hòa có chuyên môn giỏi và tận tâm từng làm việc ở Quân y viện Pleiku, Bệnh viện Pleiku, Bệnh viện 115 ở Sài Gòn khi nói về người thầy của mình đã gọi bác sĩ Trần Ngọc Ninh là "Một vị ân sư lỗi lạc", "...được làm việc bên Thầy để học hỏi nhiều hơn, không những về chuyên khoa của Thầy mà còn học ở Thầy lề lồi sống ở đời..". Dấu ấn nào đã ghi khắc hình ảnh người thầy vào câu chuyện của họ ? Chắc chắn là từ nhân cách đẹp đẽ và trình độ chuyên môn giỏi của những người thầy này.
Nhân cách sống của những người được đào tạo từ các trường lớp sư phạm cũng như của các ngành y tế, khoa học kỹ thuật..của miền Nam càng về sau càng hoàn thiện, càng chuẩn mực để có thể đứng vững trên bục giảng. Thầy Bảo Dũng, từng dạy ở Trung Học Ninh Hòa trước 75 và tiếp tục gần 40 năm sau 75 đã cho rằng :" Tinh thần trách nhiệm, lòng tự trọng, tinh thần tự giác của người dạy rất cao. Bộ giáo dục và xã hội hoàn toàn tin tưởng tư cách và chuyên môn của người thầy..". Thầy Bảo Dũng sau bao năm tháng dạy học đã có cái nhìn thu tóm về nền giáo dục miền Nam: "Chẳng bao giờ phải bận bịu chuyện thao giảng, dạy tốt, dự giờ; chẳng ai kiểm tra hồ sơ, bài soạn của người dạy ; người dạy tự do sắp xếp bài giảng. " Vì thế, trước 75 không hề có chuyện đồng loạt giảng dạy một bài học ở cùng một cấp lớp, trong cùng một thời điểm. Việc hành chánh trong nhà trường gọn nhẹ nhưng hiệu quả....
Tôi còn nhớ rõ hình ảnh của một người lãnh đạo miền Nam đã quan tâm công cuộc giáo dục cộng đồng rất thực tiễn và hiệu quả mà tôi đã thấy. Năm tôi học lớp nhất Trường Tiểu học Xuân An (nằm mé phải nhà thờ lớn của Đà lạt) vào niên học 62-63, trên đường đi học về phía đường Trần Hưng Đạo, gần Ty Ngân Khố cùng bạn bè trong lớp thì một chiếc xe màu đen dừng lại cạnh chúng tôi. Một người mặc veston xám ung dung bước xuống xe nhìn hàng cây anh đào đang mùa hoa nở và nhiều rác giấy quăng bừa bãi dọc con đường này. Chúng tôi dễ dàng nhận ra đó là tổng thống Ngô Đình Diệm của miền Nam. Qua mấy ngày sau, khắp các con đường chính ở Đà lạt đều được treo những giỏ rác lưới cách khoảng trên lưng chừng tầm tầm những thân cây hoa anh đào. Thầy hiệu trưởng Nguyễn Tri Bật cùng các thầy cô mỗi sáng thứ hai chào cờ dặn dò học sinh chúng tôi trên đường đi học về nhớ lượm rác vụn trên đường đi bỏ vào giỏ rác. Dần dà, chúng tôi thành thói quen lượm rác thải bỏ vào đúng chỗ và những con đường ở Đà Lạt sạch đẹp hơn trước nhiều....Người đứng đầu một nước biết lo lắng từ chuyện nhỏ như chuyện giáo dục môi trường như trên sẽ tác động lớn đến sự hình thành nhân cách cho người công dân. Những ai từng lớn lên cùng Đà Lạt chắc sẽ nhớ câu chuyện giữ gìn cây thông, giữ gìn rừng xanh cho thành phố Đà Lạt của tổng thống Diệm khi quở trách viên tỉnh trưởng bấy giờ đã không chú ý việc chặt thông bừa bãi trên đèo Prenn là cửa ngõ vào thành phố hoa..Bây giờ, với lòng tham lam không điểm dừng, với sự hiểu biết thấp kém, với sự thờ ơ của nhiều người trên dưới đã biến Đà Lạt thành một đô thị với nhiều mảng rừng cây xanh dần dà biến mất ; việc xây dựng lộn xộn và giành giật đất đai lo vun quén lợi ích nhỏ to của nhiều kẻ chức quyền khắp mọi nơi đang đi theo con đường tàn phá đất nước một cách ngang nhiên với nhiều kiểu khác nhau từ giáo dục, kinh tế, ngoại thương, công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiêp v..v... đã đưa dân tộc đến sự suy đồi, lệ thuộc ngoại bang, cái xấu xa tràn lan khắp mọi nơi trong nước.
Hình ảnh tồi tệ về con người và xã hội Việt Nam từ những hệ quả của nền giáo dục quá tệ đã được thể hiện khi tiếp xúc với bên ngoài. Tai tiếng quá nhiều so với danh tiếng ! Người Nhật ra nước ngoài luôn được kính phục bởi trình độ văn minh, văn hóa đích thực. Nhiều người Việt ra nước ngoài với trình độ văn hóa và nhân cách thấp kém. Đó là kết quả của sự lãnh đạo và một nền giáo dục quá tệ ! Nếu không có sự thay đổi và chân chỉnh kịp thời và đúng hướng, chúng ta e rằng tương lai của dân tộc sẽ càng lúc càng lụn bại và sự lệ thuộc phương bắc, tình trạng mất nước sẽ đến không chóng thì chày !
Ai là kẻ chịu trách nhiệm đây ?!
*
* *
Nêu lên vài cảm nghiệm về một nền giáo dục đã từng nuôi dưỡng chúng ta trưởng thành tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại trong chúng ta nhiều giá trị tốt đẹp. Đồng thời, nhắc lại nền giáo dục miền Nam không phải để tiếc nuối mà là sự lo lắng cho tiền đồ và vận mệnh sống còn của dân tộc và đất nước không riêng của ai trước những mưu tính lâu dài của kẻ thù truyền kiếp phương bắc trong việc gặm nhắm, thôn tính dần dà bằng mọi cách quê hương yêu dấu của chúng ta. Giáo dục đóng một vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ đất nước. Chỉ có một nền giáo dục có nền tảng nhân bản, dân tộc và tự do mới mong đưa đất nước thoát khỏi sự trì trệ, suy đồi và nguy cơ mất nước kề cận hiện nay mà thôi.
Dương Anh Sơn
11/2015
No comments:
Post a Comment