Tôi cũng như các bạn, chúng ta có rất nhiều bạn - thân, sơ, xã giao. Mọi người ai cũng có cá tính riêng, tốt hay xấu tùy theo quan điểm cá nhân. Về phương diện xã hội, có hai cách sống; có người rút vào cái vỏ ốc để cảm nhận được bình an trong sự cô độc của mình. Có người thích nhiều bạn để rong chơi, trò chuyện, tâm sự. Ngôn ngữ Việt của ta rất hay - bạn bè - tôi thích bạn, nhưng ghét bè.
Bạn là những rừng cây tựa vào nhau để khỏi bị đánh ngã trong cơn bão dữ. Bạn là những nhánh sông ngoằn ngoèo đổ vào biển tình thương để tạo nên sóng. Sóng đập vào bờ, sóng rút lui vào biển cả, đến rồi đi, quyện vào nhau tạo nên âm thanh tuyệt vời, không ồn ào hỗn loạn, không im lặng đơn độc. Đó là âm thanh của tình bạn thiết tha, cảm thông chia xẻ, cho hết lòng thương; không phải như tình yêu chỉ muốn chiếm hữu.
Khi đến tuổi dứt nợ cơm áo, thì tình bạn cũ bừng lên mãnh liệt, như món ăn tinh thần, một thang thuốc bổ. Vì vậy chuyến trở về Việt Nam 2014 đã thôi thúc tôi tìm gặp lại hai người bạn thân, đó là Nguyễn Thị Dần và Đoàn Thị Hằng Nga, lớp Đệ Nhị B niên khoá 1968 -1969 của trường Nữ Trung Học Qui Nhơn.
Bạn Dần của tôi, nghe tên thì biết tuổi. Dần đô con khỏe mạnh, xinh nhất trong 3 đứa. Nhà Dần có sân thượng nên tôi và Nga thường kéo đến học. Học thì ít, mà đùa giỡn, tán dóc thì nhiều; nằm lăn ra bên nhau, ngắm bầu trời đầy sao để vẽ vời mơ ước. Hằng Nga muốn thành cô giáo, tôi muốn vào trường Dược, còn Dần thì trả lời : ''Tao không biết". Mổi lần nhìn lên bầu trời cao, có ngôi sao nào xẹt qua, là cố gắng mở nút áo bấm rồi đóng lại kịp lúc trước khi sao tắt, thì ước mơ của mình sẽ thành. Nghĩ lại… Ôi sao cái tuổi mười bốn mười lăm mà vẫn ngây ngô lạ kỳ. Bên cạnh nhà Dần có một cây ổi oằn trái. Một đêm nọ, hai đứa xúi : "Ê… Mỹ Hòa qua hái ổi !"; thế là tôi bò qua mái nhà hàng xóm, tay vừa chạm trái, thì một tiếng la thật to : "Vi Xi… !", nhìn xuống đất, tôi hoảng kinh thấy một người Mỹ chĩa súng về phía tôi, lên cò súng nghe lách cách. May thay, một cô gái chạy ra, quát lên và ra lệnh trèo xuống, không thì chết oan mạng. Hú vía, suýt chết… Đó là một kỷ niệm để đời, khó quên.
Khoảng nửa năm Đệ Nhị, Dần chạy qua gặp tôi và khóc : "Thầy Mẹ bắt Dần đi lấy chồng, người mà Dần chẳng biết mặt. Chống cự mãi vẫn đành thua vì chủ thuyết "Học để làm gì… Lấy chồng giàu là có tất cả !”. Đám cưới bạn vào dịp Noel, đêm đó cả lớp đang vui chơi họp mặt. Nhìn ra cửa sổ, tôi thấy Dần với tóc cô dâu bới cao, đang nhìn vào và khóc, tôi thương bạn vô cùng. Thầy Tôn Thất Bút, lúc đó đang là Giáo Sư Hướng Dẫn lớp tôi, đọc đoạn thơ :
Từ nay trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
Đi học lại vài tháng, Dần đã bị sức ép gia đình đành tách rời trường, bạn. Thuận theo ý cha mẹ, Dần đã có một gia tài lớn và một người chồng hiền lành, nhưng không biết tính toán làm ăn, tối ngày say xỉn. Một lần Dần bảo tôi : “Đêm qua, ổng lại say quá… Đang ngủ, ổng xoa cái đầu gối chân tao, rồi giật mình ngồi dậy, la lớn : "Sao giận gì tui, mà bà đem con đi cạo đầu trọc lóc vậy. Mỹ Hòa nghe có chán chưa !?”. Tiền bạc cũng từ từ bay hơi theo men rượu, nhà từ lớn thu hẹp nhỏ dần. Biến cố 1975 xảy ra, gia đình Dần chuyển đi xa, chúng tôi mất liên lạc. Sau gần bốn mươi năm gặp lại, được biết chồng Dần chết vì ung thư gan, để lại bảy đứa con. Dần chuyển vào Bình Tuy sống an phận, chấp nhận đời mình, không oán trách.
Trong số bạn bè, có ai nắm trong tay tài sản lớn như Dần; mà tiền bạc cũng phù du như kiếp người, có rồi mất. Nhưng mãi trong tôi, vẫn là một bạn Dần ngây thơ ngày xưa, như bài thơ con cóc của tôi năm Đệ Nhị, mà Dần vẫn còn nhớ :
Ba chúng ta Hòa, Dần, Nga
Hay lăn xăn, hay lít xít
Hay ăn quỵt của bạn bè,
Nhất là mẹ - ngon số dách.
Dần, Mỹ Hòa, Hằng Nga (1967)
Đêm nay, tôi ra biển để ngắm trăng Mười Sáu. Tôi say mê với một mầu đỏ, to, tròn từ từ ló dạng ở chân trời. Càng lên cao, trăng nhỏ dần rồi chuyển màu sáng trắng, lung linh trên bầu trời đen. Mặt trăng bỏ đường chân trời, như tôi đã bỏ quê hương nửa vòng trái đất. Tôi thèm được trở về để sống lại những đêm nằm dài trên cát với bạn bè, nghe tiếng rì rào của biển, cảm nhận hơi ấm của đất thấm dần vào lưng, hưởng làn gió biển mơn man trên da thịt, được ngắm chị Hằng đỏ hồng e thẹn ló dần sau lưng tượng Trần Hưng Đạo; và mơ ước làm Hằng Nga có chú Cuội si tình dưới gốc cây đa. Ở đây, nhìn trăng tôi chỉ thấy hình con thỏ. Con thỏ trong tôi đã chạy trốn quê hương để lưu vong xứ người. Ở đây có những con chim biển khổng lồ, đứng im như tượng đá, để vồ chụp những con cá vô tội bơi ngang. Tôi chợt rùng mình cho đất nước này, ngay cả nơi tưởng như bình yên, vẫn ẩn núp những bất an rình rập.
Viết về ba người bạn, nên tôi mạn phép viết về mình. Tên tôi gắn liền với địa danh của mẹ tôi là Ninh Hoà. Chị tôi tên Lưu Huế. Ba tôi là một quân nhân nên ông rời Thừa Thiên, đi khắp nơi như dân du mục. Bảy đứa con sinh ở năm thành phố khác nhau. Tôi lang thang các trường từ miền Tây cho đến Đà Nẵng, nên không có bạn tiểu học. Đệ Ngũ mới vào Nữ Trung Học Qui Nhơn. Đệ Nhất qua Cường Đễ rồi đi thẳng vào Đại Học Sư Phạm Huế theo ước nguyện của ba. Năm 1974, tôi ra trường, dạy tại Tăng Bặt Hổ Hoài Nhơn; nhưng lúc đó đang chiến tranh nên trường đổi vào đóng gần Nữ Trung Hoc Quinhơn. Biến cố 1975 xảy ra, để được dạy lại phải xác minh lý lịch, tôi gặp khó khăn với tên cán bộ tiếp thu thiếu hiểu biết : “Lý lịch quá lôi thôi, thiếu rõ ràng. Chánh quán Thừa Thiên, sinh quán Đà Lạt, trú quán Qui Nhơn. Đã vậy còn mang cái tên Mỹ Hòa, thằng đế quốc Mỹ là không có hòa, chị phải về đổi tên đi thì mới được dạy lại”. Quá chán nản, tôi trả lời thẳng thừng : “Cha mẹ tôi đặt tên, cho thì dạy, không thì thôi, tên tôi không đổi”. Tên cán bộ lườm tôi sắc nhọn, nặng tay đóng dấu mộc lên tờ đơn, và to giọng : "Thôi được, cho Cô dạy, nhưng phải theo trường về Hoài Nhơn". Đến năm 1981, tôi trở về dạy tại Nữ Trung Học Cũ Qui Nhơn.
Sáu năm sống với rừng dừa, với dòng Lại Giang êm đềm, đã nuôi dưỡng hy vọng trong tôi, chờ ngày chồng cải tạo trở về. Đó là khoảng thời gian tận cùng của thiếu thốn, của sự ngu dốt cai trị, đã đẩy nhiều người chấp nhận cái chết mà ra đi. Nhớ Mẹ tôi thường dặn : "Khi nào con về Qui Nhơn thăm nhà, nhớ ghé Quốc Doanh Bồng sơn, mua cho Má một chén chè nếp". Tôi đã từng thở dài, nhìn cảnh chỉ trích nhau chỉ vì tranh giành mấy lạng mì chính, một cuộn chỉ hay một mét vải mỗi năm để chỉ đủ may được một ống quần.
Thiếu thốn vật chất, nhưng đời sống tinh thần của tôi được đền bù xứng đáng. Tôi yêu những đứa học sinh nông thôn chất phát, thỏ thẻ đem cho tôi một trái bầu hay một bó rau đầy tình nghĩa. Có em nghèo lắm, phải đi bộ chân đất 2, 3 tiếng đồng hồ đến trước cửa trường, rồi mới mang giày vào lớp. Có em vào niên học mới, quần ngắn cũn cởn lên gần đầu gối mà không có tiền may cái mới. Cuối tuần, thầy trò thường đèo nhau xe đạp, ra biển Thiện Chánh để vùng vẫy với biển cả, và đón trăng lên.
Tôi thèm được trở về để nằm trên chiếc võng đong đưa cạnh dòng Lại Giang, nghe tiếng rì rào của lá tre hai bên bờ sông reo vui, hưởng những cơn gió đồng nội đem theo mùi hoa bưởi. Tôi chỉ là những bông hoa vàng, bé tí, xinh xắn của đám cải xanh cạnh dòng sông sau nhà. Giờ tôi bị bứng gốc đem qua đất nước văn minh nầy, để chỉ nằm trên nệm gấm xa hoa, hưởng gió mát của máy lạnh, ngửi mùi thơm của đèn cầy và nghe tiếng tủ lạnh chạy đều đều trong căn nhà lạnh lùng, bít bùng.
Tôi đã trở về, nhưng đau lòng nhìn dòng Lại Giang cạn nước, như tình người đã cạn sau bốn mươi năm. Tôi, như nhịp cầu sắt lẻ loi còn sót lại của thị trấn nhỏ Bồng Sơn, dù bao vật đổi, sao dời, vẫn nhìn thấy lại chính mình, ngay trên từng ngọn cỏ.
Người bạn thân thứ hai của tôi là Đoàn Thị Hằng Nga, thường ngồi đầu bàn. Hằng Nga học rất giỏi, luôn là học sinh nhất toàn khối. Người nhỏ nhắn với mái tóc búp bê ôm lấy khuôn mặt dễ thương, ẩn hiện một vết sẹo nhỏ dưới gò má vì tội ham ăn đường thắng dẻo lúc còn bé. Tôi học khá nhờ bạn, nhất là môn khoa học; hai đứa không bỏ qua sách Toán Lý Hóa của tác giả nào. Vì biết khả năng học của nhau, nên mỗi khi học chung, để tiết kiệm thời gian, và tránh chuyện trò, tán dóc, hai đứa thường thay phiên nhau, đứa ngủ, đứa thức làm bài tập một mình. Bài dễ tôi bỏ qua, bài nào khó tôi ghi chú : "Bí", "Kỳ cục"... rồi chờ Hằng Nga thức dậy giải tiếp.
Năm Đệ Nhị, Giáo Sư Hướng Dẫn lớp tôi là Thầy Tôn Thất Bút, thầy mới ra trường, người dong dỏng cao, chững chạc nhưng không quá nghiêm khắc, vì vậy cả lớp hùa theo Thanh Huê, luôn gọi thầy là Pa Pa. Ngoài môn Việt Văn, thầy kiêm luôn môn Sử Địa, Pháp Ngữ. Cô Hiệu Trưởng Vương Thuý Nga dạy Lý Hóa. Giờ học của cô rất sinh động vì kiểu “toán chạy” của cô, ba người nộp bài trước được cộng thêm điểm từ 3, 2, 1. Trong lớp, tôi cũng ngán các bạn giỏi khác như Trần Thị Thu Thủy (được lớp đặt tên Thủy Sơn Hà), bạn Lê Thị Như Nguyện... Để giải cho nhanh, tôi và Hằng Nga chia nhau làm bài, đứa bài 1, đứa bài 2 rồi… copy nhau. Trót lọt được vài lần, cho đến một hôm, bài tôi phát ra mang tên Nga, và bài Nga mang tên tôi, kèm theo hai con zéro to tướng, và bị chép phạt một trăm lần vì tội không trung thực.
Không chỉ thông minh, Hằng Nga rất chăm học. Những năm luyện thi, hai đứa thường xuống học trường Hai Ngô. Chẳng phải vì thầy ở đó giỏi, nhưng vì bài tập thầy cho rất nhiều, nếu làm không xong sẽ bị phấn lia vào mặt, hoặc bị sỉ vả trước bạn nam sinh, sợ xấu hổ mà phải lo học, thế thôi. Hết Đệ Nhị, hai đứa không xuống học Hai ngô nữa. Tú Tài Bán năm đó, Hằng Nga đậu hạng Bình. Sau đó bọn chúng tôi phải chuyển qua học tiếp Đệ Nhất ở trường Cường Để. Tôi chỉ giỏi suy luận, trí nhớ rất kém, nên ghét môn sinh vật với gan, phổi lộn tùng phèo. Tôi nhất định tiếp tục vào ban B, còn tất cả các bạn khác đều chuyển vào ban A. Ngồi lẻ loi một mình với đám con trai tinh nghịch Cường Để; đã vậy, Hằng Nga còn dọa : "Mày ngồi trên ghế của mấy thằng con trai, coi chừng bị… mang bầu đó". Sau một tuần gồng mình, rốt cuộc sợ lảng nhách, tôi chạy qua lớp A với các bạn; rõ thật là ngu ngơ, khờ khạo.
Trước ngày đi thi Tú Tài Toàn, Hằng Nga tâm sự : "Bà Giám Thị cũ Nữ Trung Học xếp chỗ ngồi bên cạnh tao, bảo tao cho xem bài thi, tao ghét lắm, nhất định là không". Tôi đâu ngờ, lần thi hết trung học 1970 đã giết chết tương lai Hằng Nga, bởi vì không cho bà Giám Thị cũ xem bài và Hằng Nga đã chuyển bài làm của mình cho người chị ruột bên cạnh. Không hiểu sao, Giám Thị biết được, lập biên bản. Không có tên trong danh sách đậu, nhưng Nga có tên trong danh sách thi lại phần hai sau đó vài tháng. Lúc đó tôi đang ở Sài Gòn để luyện thi, mỗi ngày trông bạn thi xong, mau vào với mình, tôi chỉ nhận được thơ bạn viết : "Hòa biết không, tao mừng đến chảy nước mắt khi thấy tên trong danh sách thi. Khi bước vào phòng và ngồi xuống theo số báo danh, thì Giám Thị bước vào, cả lớp đứng dậy. Rồi Giám Thị đọc biên bản lệnh cấm thi ba năm của tao, chỉ vì tội đưa bài cho người khác, và tao bị đuổi ra khỏi phòng". Thế là hết cả một tương lai vào Đại Học chỉ vì tội chủ quan mà không ngờ hậu quả; hay tại lòng người hiểm ác, không còn chút thiện tâm ?
Sau đó Hằng Nga thi vào Cán Sự Hóa Học Sài Gòn, một ngành học cũng rất khó đậu. Hai năm sau ra trường, Hằng Nga không đi làm, quyết tâm học lại khối B, thi Tú Tài Toàn rồi vào thẳng năm thứ nhất Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, khi tôi là năm cuối của Đại Học Sư Phạm Huế. Nửa đoạn đường Đại Học thì xảy ra biến cố 1975, trường kéo thêm một năm học chính trị. Cho đến ngày ra trường, biết chắc chắn là nếu trở về nguyên quán Bình Định, thì sẽ không được đi dạy vì lý lịch cha là cảnh sát. Nga tình nguyện xin vào miền tây xa xôi Đồng Tháp. Sau bốn năm, xin chuyển về vùng kinh tế mới Long Khánh.
Nhớ lại những năm ở Nữ Trung Học, tôi, Hằng Nga và Thu Thủy có học thêm Anh Ngữ ở thầy giáo người Mỹ - ông Rocky - thường nói Nga sẽ dễ dàng đi du học vì quá giỏi. Lúc đó, cả bọn thường đọc tử vi của ông Huỳnh Liên. Tử vi chấm, đa số đều xuất ngoại, ngoại trừ Hằng Nga. Bọn tôi chế nhạo : "Đoán xạo, tầm bậy hết chỗ nói". Vậy mà giờ nhìn lại, thấy đúng.
Khoảng 1981, tôi có tìm vào khu kinh tế mới Long Khánh để thăm Hằng Nga. Ngoài dạy học, Nga mở một tiệm tạp hoá nhỏ ở đầu làng, bán đủ thứ, từ quyển vở, thuốc cảm, kim chỉ, mắm muối... Tôi cười và mừng cho bạn khéo xoay sở.
Trong khi sự nghiệp của tôi cứ “một lèo vun vút”, thì đời sống tình cảm trắc trở vô cùng. Ngược lại với Hằng Nga, để bù lại những thiệt thòi trên con đường học vấn, bạn đã có một mối tình tuyệt vời, khởi từ những ngày Đệ Nhất Cấp. Tôi thường đùa tình yêu của bạn như một chiếc xe đạp cũ kỹ mà bền bỉ. Chiếc xe đạp ấy đã chở Hằng Nga qua những thăng trầm của cuộc đời. Chở bạn đi trên những lối mòn kinh tế mới, vẫn vững vàng cho đến hôm nay. Hằng Nga rất hạnh phúc bên chồng và hai co, cháu nội, ngoại. Các con hưởng “gen” cha mẹ nên rất thành công trong xã hội Việt Nam hiện nay. Bạn tâm sự, chỉ ao ước bạn bè khi có dịp trở về thăm quê, nhớ đến thăm Nga đang sống tại Sài Gòn.
Trời đã định sẵn cuộc đời của mọi người khi mới sinh ra. Không ai hay hoặc dở hơn ai. Tốt hay xấu cũng như nhau, tùy theo quan điểm mọi người. Tiền bạc, giàu có như bạn Dần rồi cũng bay đi. Bằng cấp như tôi, cuối đời cũng chỉ là công nhân bình thường. Giỏi như Nga, mà cả đời lận đận với ước mơ làm cô giáo. Vậy thì còn lại gì, ngoài sự bình an tâm hồn cho đời sống hiện tại.
Có người cho rằng, có thêm bạn là thêm ẩn số, khó giải quyết. Nhưng với tôi bạn là món quà quí giá để tôi trân quí, giữ gìn, cho nhau tình thương chứ không nên tranh lý hơn thua, để lắng nghe những phiền muộn, hay chia xẻ lo lắng. Như gia đình Thu Thủy đã hết lòng lo cho tôi, hướng dẫn tôi cách săn sóc mẹ ở quê nhà.
Giờ đây đất nước tang thương đã đẩy bạn tôi đi khắp nơi. Chúng tôi chỉ ao ước những cơ hội họp mặt trường lớp ở Houston hay ở Cali để được đêm nằm bên nhau, tranh nhau chí choé kể kỷ niệm xưa, rồi cười lăn, hồn nhiên như ngày còn bé; để sáng ra, nhìn mặt nhau, thấy bao nhiêu nếp nhăn trên khuôn mặt, bao nhiêu sợi tóc bạc mầu, là bao nhiêu tang thương cho quê hương đã bỏ lại sau lưng. Rồi ngậm ngùi, xót xa và lắc đầu cho ý tưởng trở về để sống nốt quãng đời ngắn ngủi còn lại.
Ai có thể dửng dưng, vô cảm với những bất công của xã hội hiện nay trên quê hương tôi. Khi có những đứa trẻ, chỉ học lớp Mẫu Giáo đã vào trường quốc tế tại Việt Nam, với lệ phí cao gấp đôi tiền già sống ở Mỹ. Bên cạnh đó, không biết bao nhiêu đứa trẻ phải chui vào bãi rác, bao nhiêu đứa trẻ vì cơm áo gia đình, đã bỏ mạng sống, máu loang đỏ dòng sông như em bé vớt dầu ở xưởng Ba Son.
Chân tôi bước trên đại lộ tự do thênh thang xứ người, nhưng nỗi sầu quê hương vẫn đè nặng làm lòng tôi cuộn sóng. Tôi - đám hoa cải vàng, cạnh dòng sông quê nhà ngày nào - giờ đã chết trên xứ người. Hải âu đã bỏ biển yêu thương để bay xa. Không, khi mắt tôi còn nhìn thấy, tim tôi còn biết đau, thì, các bạn ơi… Tôi không thể trở về !
... Ngàn năm nỗi đau,
hóa kiếp mây trôi
Cô đơn. Biển cạn.
(Nguyễn Kim Tuấn)
Peace Nguyen
(Houston, 30/4/2016)
http://lientruong-quynhon.com/p117a897/ba-nguoi-ban
No comments:
Post a Comment