Monday, September 9, 2013

LĐ369/TQLC Trên Sông Mỹ Chánh 1972_T/g MX Phạm Văn Chung



Tình Hình Tổng Quát

Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến là lực lượng Tổng Trừ Bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cho đến đầu năm 1972 vẫn gồm 3 Lữ đoàn tác chiến 147, 258, 369. Trong trận Hạ Lào, Lữ đoàn 147 bị thiệt hại trung bình nhưng sau hai tháng bổ sung đầy đủ, khí thế cùng phong độ chiến đấu trở lại như xưa. Cũng kể từ sau chiến dịch Hạ Lào, 3 Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến thay phiên nhau luôn luôn có 2 Lữ đoàn cùng với Sư đoàn 3 Bộ binh trấn giữ vùng giới tuyến, 1 Lữ đoàn nghỉ bổ sung dưỡng quân đồng thời làm Tổng Trừ Bị của Tổng Tham Mưu.


Khoảng cuối tháng 3 năm 1972, Lữ đoàn 369 đang hoạt động vùng mật khu Ba Lòng tỉnh Quảng Trị, bao gồm các căn cứ hỏa lực: Mai Lộc, Holcomb núi Bá Hổ, Sarge ngay phía Nam Khe Gió trên quốc lộ 9 dẫn vào thung lũng Khe Sanh, Lao Bảo, thì được Lữ đoàn 147 thay thế để về Saigon bổ sung dưỡng quân sau 4 tháng hành quân vùng này. Dự trù Lữ đoàn sẽ được nghỉ ngơi tại hậu cứ 3 tuần lễ, nhưng chưa được 2 tuần, vào ngày 3O/3/72 hồi 12 giờ trưa, Cộng sản Bắc Việt khai diễn chiến dịch Nguyễn Huệ, đồng loạt ồ ạt, hung hãn xua hơn 10 sư đoàn tác chiến, hàng ngàn xe tăng, đại pháo, hoœa tiễn tấn công vào lãnh thổ vùng I, II, III của Việt Nam Cộng Hòa.

Sáng ngày 1/4/72 Lữ đoàn 369 được lệnh phải bổ sung quân số, đạn dược, lương thực gấp rút ngày đêm, chuẩn bị di chuyển hành quân bất cứ giờ nào. Khi gặp Đại tá Bùi Thế Lân, Tư lệnh Phó Sư đoàn, chúng tôi được biết khái quát là riêng Vùng I Chiến Thuật có khoảng 5 sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt cùng xe tăng đã vượt sông Bến Hải và từ phía Tây vượt Trường Sơn tràn xuống tấn chiếm các căn cứ hỏa lực phòng thủ của chúng ta, toàn bộ Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến được lệnh ra hành quân ngoài đó. Ý định của Bộ Tổng Tham Mưu đưa Bộ Tư Lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến ra Vùng I để chỉ huy toàn bộ các Lữ đoàn 147, 258 và 369, vì Sư đoàn 3 Bộ Binh có nhiều tăng phái đã vượt quá khaœ năng điều khiển.

Bắt đầu từ sớm ngày 2/4/72 Bộ Tham Mưu Sư đoàn, các đơn vị yểm trợ Sư đoàn, Lữ đoàn 369 gồm các tiểu đoàn 2, 5, 9 tác chiến, tiểu đoàn 1 Pháo binh cùng các đơn vị yểm trợ thuộc Lữ đoàn, tuần tự được vận tải cơ C13O không vận đến phi trường Phú Bài, Huế rồi vận chuyển bằng xe hơi vào vùng hành quân.

Ngày 3/4/72, khi vừa ra khỏi phi cơ thì Bộ Tham Mưu Lữ đoàn chúng tôi được sĩ quan phòng 3 Sư đoàn cùng xe đón ngay vào Bộ Tư Lệnh Sư đoàn Hành quân đóng trong Thành Nội, Huế. Nơi đây chúng tôi được Đại tá Lân nói rõ hơn tình hình chiến sự ngoài vùng giới tuyến. Có Trung tướng Lê Nguyên Khang Tư lệnh Sư đoàn hiện diện cùng bộ Tham mưu Sư đoàn. Đại tá Lân cho biết về phía Tây, các căn cứ hỏa lực Holcomb, Sarge, núi Bá Hổ, có căn cứ bị tràn ngập, có căn cứ phải rút lui vì áp lực địch quá mạnh. Hiện căn cứ Mai Lộc là Bộ Chỉ Huy Lữ đoàn 147 của Trung tá Nguyễn Năng Bảo, Lữ đoàn trưởng đang bị pháo kích nặng nề, áp lực bộ binh rất gần. Về phía Bắc Sư đoàn 3 Bộ binh trấn giữ các căn cứ A1, A2, A3, A4, C1 . Fuller, Khe Gió đã lọt vào tay địch. Căn cứ Caroll, C2 bị pháo kích nặng nề, bộ binh địch đang tiến lên uy hiếp. Lữ đoàn 258 của Trung tá Ngô Văn Định đang phải tiến lên ngăn cản xe tăng cùng bộ binh địch tràn qua căn cứ C1 theo quốc lộ 1 xuống Cùa đã gần đến Cam Lộ, Đồng Hà...

Vùng trách nhiệm của Lữ đoàn 369 là vùng Tây Nam thị xã Quảng Trị thuộc quận Hải Lăng. Nhiệm vụ lùng diệt và ngăn chận địch tấn công sườn trái của Sư đoàn 3 Bộ binh không cho địch tràn xuống quốc lộ 1, trục tiếp vận chính từ Huế đến các đơn vị đang hành quân phía Bắc sông Thạch Hãn.

Vùng Trách Nhiệm.

Khu vực hành quân của Lữ đoàn 369 rộng khoảng 2OO cây số vuông, Bắc từ bờ sông Nhung cách thị xã Quảng Trị 5 cây số, Nam là sông Mỹ Chánh cũng là ranh giới hành chánh giữa quận Haœi Lăng, Quảng Trị và quận Phong Điền, Thừa Thiên, phía Tây không giới hạn khi vượt qua căn cứ Barbara và Jane, Đông bao trùm quốc lộ 1 một cây số về phía quận Hải Lăng. Địa thế trong vùng từ quốc lộ 1 về hướng Tây là đồi trọc với các bụi rậm raœi rác khoảng 2 cây số. Càng xa hơn nữa là núi cao rừng rậm nhiều suối rạch. Từ quốc lộ 1 về phía Đông là các cồn cát trắng có bụi rậm và dừa nước theo các rạch nhỏ ngoằn ngoèo.

Các điểm chiến thuật quan trọng chế ngự đường tiến quân của địch như căn cứ Barbara, Nancy, sông và cầu Nhung, sông và cầu Ô Khe, sông và cầu Mỹ Chánh. Tất cả các cầu cống đều nằm trên quốc lộ 1, các giòng sông đều chảy từ Tây sang Đông.

Khoảng 2 giờ chiều ngày 3/4/72 Lữ đoàn triệu tập một cuộc họp sơ khởi ngay tại Bắc cầu Mỹ Chánh trong khi đoàn xe vận tải và xe kéo pháo caœ hơn 2OO chiếc đang chở binh lính vào vùng hành quân. Trời đất bụi mù, tiếng ồn ào động cơ, tiếng người, tiếng quân dụng va chạm tạo nên khoảng không gian tràn ngập mùi chiến tranh.

Đại diện trong buổi họp, Tiểu đoàn 2 là Tiểu đoàn đàn anh của Thủy Quân Lục Chiến, có lối chiến đấu hung hãn mà chính binh lính Cộng sản Bắc Việt đặt cho hỗn danh Trâu Điên, quân kỳ Tiểu đoàn đã có 3 giây biểu chương từ Anh Dũng Bội Tinh trước quân đội đến Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Đơn vị từng được chỉ huy bởi các vị Tiểu đoàn trưởng tiền nhiệm nay đã lên Tướng Tư lệnh hoặc Tư lệnh phó Sư đoàn. Hiện nay Trâu Điên có Tiểu đoàn trưởng là Trung tá Nguyễn Xuân Phúc, hỗn danh Robert Lửa, khóa 16 Đà Lạt, một sĩ quan đầy đủ phong độ, kinh nghiệm chiến trường, người nhỏ tầm thước, lanh lẹ không ngoan như con báo rừng. Tiểu đoàn được chỉ định chiếm căn cứ Barbara hoạt động vùng Nam khu vực sát sông Mỹ Chánh, sâu về phía Tây khoảng 10 cây số. Tiểu đoàn 5, hỗn danh Hắc Long, là tiểu đoàn có nhiều chiến tích oai hùng, quân kỳ Tiểu đoàn cũng mang hai giây biểu chương màu vàng màu xanh do Thiếu tá Hồ Quang Lịch chỉ huy. Ông là người ghét Cộng sản biểu lộ trong từng hành động, lời nói vì cha mẹ đều bị Cộng sản sát hại cả. Tính tình nhậm lẹ, nóng nảy, bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng lùa Tiểu đoàn xung phong vào tuyến địch. Tiểu đoàn ông sẽ chịu trách nhiệm khu trung tâm vùng hoạt động của Lữ đoàn, bảo vệ các cầu cống trên quốc lộ 1, cơ sở chỉ huy Lữ đoàn, các pháo đội, đồng thời làm lực lượng trừ bị cuœa Lữ đoàn. Tiểu đoàn 9 thời bấy giờ là một đàn em bé hạt tiêu của Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, đã làm cay mắt các đơn vị Cộng sản Bắc Việt khắp 4 vùng chiến thuật. Quân kỳ Tiểu đoàn cũng lủng lẳng giây biểu chương màu Anh Dũng Bội Tinh trước quân đội không thua kém gì các đàn anh, được Thiếu tá Nguyễn Kim Để khóa 16 Đà Lạt chỉ huy. Ông là một sĩ quan gan lì mưu mẹo, chậm rãi tính toán kỹ lưỡng từng hoạt động. Bạn bè thường đùa cợt là anh chỉ cười nửa miệng thôi, hoặc Để mà nói thì 10 phút sau mới hiểu. Tiểu đoàn 9 được phân công vùng phía Bắc của Lữ đoàn, từ bờ Nam sông Nhung bắt tay với lực lượng Biệt Động Quân bên bờ Bắc, hoạt động đẩy xa địch về phía Tây. Tiểu đoàn 1 Pháo binh là tiểu đoàn cự phách trong làng Pháo binh không những của Thủy Quân Lục Chiến mà là của binh chủng Pháo Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã từng nhiều lần hạ nòng súng đại bác 105 ly xuống để trực xạ vào xe tăng cùng những đợt xung phong của binh lính Cộng sản Bắc Việt. Chỉ huy bơœi Trung tá Đoàn Trọng Cảo khóa 13 Đà Lạt, người sĩ quan Pháo binh này có danh hiệu truyền tin là Can Trường. Bạn bè thường phong là Công tử Thái Bình Bắc Việt vì ăn nói nhỏ nhẻ như thư sinh, hào hoa phong nhã với các bà các cô trong vùng hành quân. Đơn vị chịu trách nhiệm yểm trợ hỏa lực cho các đơn vị tác chiến. Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn gồm các sĩ quan chỉ huy và tham mưu như Cao Bằng (danh hiệu truyền tin của Đại tá Phạm Văn Chung), Tham mưu trưởng Lữ đoàn Trung tá Đoàn Thức, Thiếu tá Đoàn Trung Ương trưởng ban 3, Đại úy Bùi Văn Học trưởng ban 2, Đại uý Nguyễn Quang Đan trưởng ban 4, đặc biệt có Thiếu tá Huỳnh Văn Phú thuộc khối Chiến tranh Chính trị Sư đoàn đi theo quan sát và các đơn vị yểm trợ thuộc Lữ đoàn đóng tại căn cứ Nancy hướng Tây Bắc cầu Mỹ Chánh khoảng 1 cây số.

Quan Niệm Hành Quân

Suốt một tuần lễ đầu tháng 4/72 ý niệm hành quân của Lữ đoàn đã áp dụng từng được các đơn vị trấn giữ vùng giới tuyến thực hiện ít năm gần đó. Nặng về phòng thủ diện địa, chiếm giữ các căn cứ hỏa lực đặt các cơ sơ chỉ huy, tiếp vận tản thương, nhất là đặt các pháo đội pháo binh để yểm trợ trực tiếp cho các đơn vị thuộc quyền hoạt động trong vùng trách nhiệm. Đường lối này đã có những hữu ích hạn chế về kết quả chiến thuật trong suốt những năm Cộng Saœn Bắc Việt còn chủ trương cuộc chiến vừa đánh vừa chạy, nửa du kích nửa chính quy với các đơn vị nhoœ và trung cấp. Theo đà chiến tranh leo thang họ không còn e ngại dư luận quốc tế nữa nên đã sử dụng các đại đơn vị từ cấp sư đoàn trơœ lên, nhiều khi hợp đồng liên quân với các binh chủng khác, vì vậy chiến thuật trở nên bị động và bị thiệt hại bởi ưu thế hỏa lực pháo binh, hỏa tiễn tối tân của Cộng sản Bắc Việt vì pháo binh của họ có tầm bắn xa hơn pháo binh của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Nhất là trong cuộc đại tấn công chính quy đang tiếp diễn ác liệt tại vùng hỏa tuyến, rõ ràng các lực lượng Việt Nam Cộng Hòa ở thế bị động vì ngoài yếu tố bất ngờ còn lộ diện hoàn toàn vì nặng nề với các căn cứ hỏa lực, các đồn trại, các cơ sở chỉ huy đã làm mồi cho hỏa lực pháo binh, hỏa tiễn tối tân Cộng sản Bắc Việt tàn phá, rồi các xe tăng hạng nặng cùng bộ binh địch tiến lên bao vây uy hiếp.

Vùng trách nhiệm cuœa Lữ đoàn 369 cũng không thoát khỏi lối đánh phủ đầu uy hiếp bằng hỏa lực pháo binh, hỏa tiễn kể trên. Suốt ngày đêm các căn cứ Nancy (nơi đặt Bộ chỉ huy Lữ đoàn), căn cứ Barbara (Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 2) bị pháo kích làm tê liệt mọi hoạt động cũng như bị tổn thất đều đều. Nhận thấy thế bị động của mình, Lữ đoàn nhanh chóng thay đổi chiến thuật, không đặt nặng phải giữ căn cứ chỉ định, ngoại trừ cầu cống trên quốc lộ 1. Lưu động hóa, ẩn hiện bất thường trong vùng hành quân. Các căn cứ gần như bỏ trống, chỉ để lại một trung đội chốt trong các hầm hố kiên cố nằm đếm pháo địch khởi hành và đến mục tiêu cho đỡ buồn. Sự thay đổi này cùng với chiến thuật di động tỏ ra hữu hiệu. Pháo địch bắn vu vơ, các vị trí đóng quân của Lữ đoàn thay đổi luôn đã ra khỏi hẳn mục tiêu pháo kích trong bản phóng đồ hỏa lực được thiết kế sẵn của địch. Các tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến rảnh tay lưu động, dễ dàng điều động lùng địch để tiêu diệt trong vùng trách nhiệm của họ. Sau đây là một đoạn trong bản báo cáo của Lữ đoàn 369 gửi cho Bộ Tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ của Thiếu tá Robert Sheridan cố vấn Lữ đoàn: “Lữ đoàn không cho phép một đơn vị nào được ởœ một vị trí quá 36 tiếng đồng hồ. Suốt trong tháng 4 chúng tôi rời vị trí Bộ Chỉ Huy Lữ đoàn 21 lần. Các pháo đội pháo binh thường là mục tiêu chính của pháo binh địch cũng phải rời chuyển thường xuyên. Trong thời gian 24 tiếng đồng hồ gần những ngày cuối tháng 4, tiểu đoàn pháo binh đã thay đổi vị trí 4 lần, có một pháo đội phải di chuyển 6 lần. Phải di động như thế để tránh pháo binh địch, nhưng các tiểu đoàn tác chiến vẫn được yểm trợ hỏa lực cần thiết đầy đủ khi họ yêu cầu”.

Vào ngày 22/4/72 khi vòng đai thế thủ của Sư đoàn 3 Bộ binh cùng các lực lượng tăng phái lui dần, phía Bắc đến sông Cam Lộ, thị trấn Đông Hà, phía Tây đến căn cứ Pedro thì vùng trách nhiệm của Lữ đoàn 369 bị sư đoàn 304 của Cộng sản Bắc Việt uy hiếp nặng nề, ép dần từ phía Tây lại.

Tiểu đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến đã bị các tiểu đoàn thuộc trung đoàn 24 của địch tấn công mãnh liệt. Pháo binh vùi rập rồi hàng đợt xung phong vào các vị trí hành quân xung quanh căn cứ Barbara . Ý đồ của địch là chiếm căn cứ này để uy hiếp căn cứ Nancy, Bộ Tư lệnh Lữ đoàn, cầu Mỹ Chánh, quốc lộ 1. Nhưng Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Xuân Phúc với sở trường đánh vùng đồi núi rừng rậm và nhanh nhẹn khôn ngoan, thường thì anh phân tán mỏng tiểu đoàn để không có mục tiêu cho địch. Chợt anh tập trung nhanh chóng đánh vào điểm sơ hở của địch ở lúc bất ngờ nhất, buổi sẫm tối hoặc sáng sớm. Anh đã gây cho trung đoàn 24 của sư đoàn 3O4 Cộng sản Bắc Việt nhiều tổn thất nặng nề. Cùng với sự góp sức của Thiếu tá Bill Sweeney, Đại úy Merl Sexton, cố vấn Tiểu đoàn liên lạc điều hướng hỏa lực không quân yểm trợ tiếp cận từ ngoài hạm đội 7 Hoa Kỳ hoặc từ Thái Lan. Mỗi lần các tiểu đoàn thuộc trung đoàn 24 của địch ham săn mồi (Tiểu đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến) để lộ diện là bị không quân đánh phá ngay tức khắc. Trong thời gian này, có một lần tiểu đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến cũng bị trung đoàn 24 địch bao vây cắt xẻ làm hai cố tình diệt gọn. Nhưng tất cả binh lính, sĩ quan thuộc tiểu đoàn 2 đã quá quen thuộc địa thế vùng hành quân nên họ dễ dàng phân tán nhỏ thoát khỏi vùng nguy hiểm rồi lại tập trung ngay vào điểm đã được chỉ định sẵn.

Về phía tiểu đoàn 5 và tiểu đoàn 9 cũng bị các trung đoàn 9, 66 thuộc sư đoàn 304 của địch tấn công nhiều đợt hung hãn cố gắng đẩy lui hai đơn vị này khỏi các cao điểm ở phía Tây để chế ngự kiểm soát quốc lộ 1. Những cuộc tiến công của địch và phản công chiếm lại của ta tiếp diễn hàng ngày. Tiểu đoàn 5 và tiểu đoàn 9 cố gắng kiên trì xử dụng hỏa lực pháo binh cùng không quân. Ngày thì dùng bom nặng, đêm kêu máy bay C130, Specter Gunship gắn đại bác 105 ly bắn thẳng từ máy bay xuống mục tiêu dưới đất rất chính xác. Hai loại máy bay này gây thiệt hại đáng kể và làm binh lính Cộng sản Bắc Việt khiếp sợ. Hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến giữ vững các điểm cao nhìn xuống quốc lộ 1, địch không thể nào tiến lên được mặc dù cố gắng bằng mọi cách. Nhờ vậy sư đoàn 3 Bộ binh cùng các lực lượng tăng phái rảnh tay chỉ lo phòng thủ mặt Bắc và Tây Bắc mà thôi.

Không tràn ra được quốc lộ 1 địch điên cuồng đã dùng pháo nặng bắn vào trục lộ đầy nghẹt dân chúng, xe cộ thường dân bỏ vùng chiến tranh Quảng Trị để vào Thừa Thiên lánh nạn, gây nên bao chết chóc thê thảm cho dân chúng không sao tả xiết, nhất là các ông bà già, đàn bà, trẻ con. Dã man hơn nữa Cộng sản Bắc Việt đã gửi các Toán tiền sát Pháo binh giả dạng thường dân với máy truyền tin ẩn núp ngay gần quốc lộ 1 để chỉnh pháo cho chính xác vào đoàn người tị nạn khốn khổ đó. Trông từ xa, người quan sát có cảm tưởng như dòng sông đầy nước (người). Cứ mỗi lần pháo rơi trúng chỗ nào thì nước (người) chỗ đó bắn tung lên, chết thê thảm, làm kinh hoàng khiếp đảm cho dân chúng di tản.

Các pháo đội pháo binh Thủ Quân Lục Chiến thay đổi vị trí luôn luôn mà vẫn bị pháo địch đuổi theo, các sĩ quan pháo binh Thuœy Quân Lục Chiến nghi ngờ chắc phải có tiền sát pháo binh địch chấm điểm. Lữ đoàn liền cho các tiểu đội trinh sát thám báo lục soát thì quaœ nhiên bắt được vài toán tiền sát pháo binh địch.

Ngày 29/4/72, khoảng 1 giờ 20 Lữ đoàn nhận được lệnh từ Bộ tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến là Quân đoàn I sẽ rút một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến khỏi Lữ đoàn để tăng phái cho sư đoàn 3 Bộ binh giải tỏa quốc lộ 1, đoạn từ Bắc cầu sông Nhung lên Quảng Trị. Lữ đoàn cố gắng giải thích với Đại tá Bùi Thế Lân, tư lệnh phó/tham mưu trưởng sư đoàn rằng, nếu làm như vậy thì không thể nào cản địch tràn từ phía Tây ra quốc lộ 1 được vì áp lực địch đang đè nặng lên cả 3 tiểu đoàn tác chiến, đang ở vị thế hỗ tương yểm trợ cho nhau. Đại tá Lân trả lời là đã tranh luận với quân đoàn I rồi, cứ thi hành theo lệnh đi. Sự việc như vậy chứng tỏ Bộ tham mưu Quân đoàn I đã lúng túng chưa sẵn sàng đương đầu với chiến tranh quy ước, không có một kế hoạch phản công nào chủ động mà hoàn toàn bị động trong suốt cuộc tấn công của địch cho đến khi sư đoàn 3 bộ binh rút khỏi thị xã Quảng Trị. Lữ đoàn bắt buộc phải rút tiểu đoàn 5 ra khỏi vị trí theo quốc lộ số 1 tiến lên phía Bắc để bắt tay liên lạc với Biệt Động Quân. Trong cuộc chiến tranh Pháp Việt Minh, quân đội Pháp đã xây các pháo đài bê tông kiên cố, bảo vệ các cầu cống trên quốc lộ 1, khi tiểu đoàn 5 tiến gần đến cầu sông Nhung mới hay các lô cốt đã bị địch chiếm rồi. Các chốt súng máy, súng B4O từ các pháo đài kiên cố đó cùng pháo địch từ xa bắn xối xả vào đội hình tiểu đoàn 5. Trận đánh kéo dài 4, 5 tiếng đồng hồ vẫn không chiếm được mục tiêu. Sau cùng Lữ đoàn quyết định dùng không quân với sự điều hướng của Thiếu tá Lịch tiểu đoàn trưởng và Thiếu tá Don Price cố vấn tiểu đoàn, một pháo đài đã bị bom nặng san bằng. Tối đến tiểu đoàn 5 phải xử dụng Specter Gunship và C47 Fire Dragon để yểm trợ tiếp cận bộ binh tiến chiếm lần các pháo đài cho đến sáng thì tiểu đoàn 5 chiếm xong cầu sông Nhung. Có 234 xác địch mang dấu hiệu trung đoàn 27 nằm rải rác khắp trận địa. Khai thác tù binh cho biết trung đoàn 27 chiếm cầu đêm hôm qua (28/4/ 72) khi Địa phương quân giữ cầu bỏ đi. Tiểu đoàn 5 chờ tại đó suốt ngày 3O/4/72 vẫn không thấy lực lượng bạn đến tiếp xúc và cũng không thể nào liên lạc với sư đoàn 3 bộ binh.

Lữ đoàn báo cáo sự việc với Bộ tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến thì được Đại tá Lân cho biết rõ tình hình hơn là Quân đoàn I và sư đoàn 3 bộ binh có sự trục trặc không nhất trí. Có thể sư đoàn 3 bộ binh phải bỏ thị xã Quảng Trị, nếu sự việc xãy ra thì Lữ đoàn 369 tùy tình hình mà ứng phó, có thể điều động cả tiểu đoàn 5 về lại Lữ đoàn. Ông nói tiếp: “Cao Bằng này, tôi báo cho anh tin mừng không liên quan gì đến công việc ở đây cả, vợ anh ở Sài Gòn mới sanh con trai ngày 24/4/72, mẹ con đều khỏe cả. Vui nhé”. Chúng tôi cùng cười...

Trở lại với công việc, lữ đoàn quyết định mang tiểu đoàn 5 trở lại vị trí cũ, nhưng đã bị địch chiếm vài đỉnh cao. Tiểu đoàn 5 phải chiến đấu vất vả để giành lại, trong lúc xung phong Thiếu tá Trần Ba tiểu đoàn phó tiểu đoàn 5 bị trúng đạn tử thương ngay tuyến đầu, mặc dù bị thiệt thêm vài nhân mạng nữa cũng không sao kéo xác Thiếu tá Ba ra được (6 tháng sau mới tìm được xương cốt Thiếu tá Ba, vợ ông đang có bầu gần ngày sinh chạy lo việc chôn cất chồng tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, khi trở về trên xa lộ ngang Cát Lái gặp trời mưa, xe Jeep bị lật vợ Thiếu tá Ba và con chết tại chỗ. Thật là buồn ! Người viết xin dành vài phút tưởng niệm đến Thiếu tá Ba và gia đình, người sĩ quan trẻ, cao lớn, đẹp trai đầy tương lai này đã cùng người viết có dịp chia xẻ buồn vui, vinh nhục trong các trận đánh ở A Shau, A Lưới, đỉnh Sarge, Khe Sanh, Lao Bảo. Nhất là ngồi tâm sự với nhau ở căn cứ Mai Lộc, mật khu Ba Lòng vào những chiều nắng vật vờ xuống chầm chậm ở phương Tây và đêm tối dâng lên mênh mang cả rừng núi !).

Chiều ngày 1/5/72, tình hình ở thị xã Quảng Trị càng xấu hơn nên Lữ đoàn triệu tập một buổi họp các Tiểu đoàn trưởng tác chiến, các đơn vị trưởng yểm trợ, các cố vấn Mỹ, các sĩ quan tham mưu... Lữ đoàn cho các cấp chỉ huy rõ tình hình, đặt giả thuyết cùng phân công, phân nhiệm các đơn vị theo từng đường lối hành động nếu sư đoàn 3 bộ binh cùng lực lượng tăng phái rút khỏi thị xã Quảng Trị thì Lữ đoàn phải ngăn chặn địch như thế nào? Trước nhất tất cả đồng ý lấy chiến tuyến thiên nhiên sông Mỹ Chánh ngăn chận địch. Về quan niệm phòng thủ thì Lữ đoàn quá nhỏ bé so với quân số đông đảo hung hãn của địch. Địa thế, thời gian, phương tiện không cho phép Lữ đoàn lập tuyến phòng thủ có chiều sâu kiên cố. Trong chiến thuật, một đội quân nhỏ muốn cầm chân, trì hoãn mũi tấn công đông đảo mạnh mẽ để chờ viện binh hoặc phản ứng của các cấp bộ chỉ huy cao hơn thì chỉ có cách là phòng thủ lưu động. Vừa đánh vừa lùi chọn chỗ ẩn mình, chọn chỗ giao tranh. Ngoài ra phải phối hợp nhịp nhàng với mọi hỏa lực yểm trợ như pháo binh, không quân chiến thuật, chiến lược, hải pháo để tiêu diệt địch ở những vùng mình mong muốn. Lối đánh này đòi hỏi binh lính phải có tinh thần cao, cực kỳ kỷ luật, rành rẽ địa thế thiết kế hết sức tỉ mỉ. Tất cả đều đồng ý quan niệm phòng thủ này. Lữ đoàn cũng yêu cầu các đơn vị trưởng giải thích rõ hiện trạng, khích động giữ vững tinh thần binh sĩ. Điều này thật khó khăn cho các sĩ quan chỉ huy vì hàng ngày quân sĩ của Lữ đoàn chứng kiến cảnh lui quân hỗn tạp phá bỏ đội hình của các đơn vị bạn chạy về phía Nam sông Mỹ Chánh.

Tiểu đoàn 2 được phân công khi có lệnh thì tùy nghi trì hoãn chiến, đồng thời dùng hỏa lực yểm trợ để tiêu diệt tối đa địch quân tiến đến vùng được thiết kế sẵn. Bắc từ cầu Ô Khe cho đến Nam sông Mỹ Chánh, mục đích làm chậm sức tiến công của địch, ngăn chận địch tấn công sườn trái lữ đoàn, rồi phòng thủ bờ Nam sông Mỹ Chánh cách quốc lộ 1 hai cây số kéo dài về phía Tây.

Tiểu đoàn 5 khi có lệnh thì lùi binh cấp tốc thiết lập vị trí phòng thủ theo bờ Nam sông Mỹ Chánh cách quốc lộ 1 hai cây số về phía Đông kéo dài ra gần sát bờ biển. Vùng đồi cát trống trải phía Đông quận lÿ Hải Lăng cùng giải cát sát bờ biển sẽ là vùng hỏa lực tập trung khi địch tiến vào vùng này.

Tiểu đoàn 9 được lệnh thì chống cự, đoạn chiến, lui binh có kế hoạch lần lần theo trục quốc lộ 1 từ Bắc cầu Ô Khe về phía Nam sông Mỹ Chánh thiết lập tuyến phòng thủ, cố gắng dụ địch lọt vào các vùng hỏa lực yểm trợ để gây thiệt hại tối đa cho địch. Lữ đoàn nghĩ rằng trục này sẽ là mũi tấn công chính hợp đồng với chiến xa nặng của địch. Tiểu đoàn 9 phải lập thêm các tổ chống chiến xa đặc biệt và các tiểu đoàn 2, 5 mỗi tiểu đoàn đưa thêm một nửa cấp số ống phóng hỏa tiễn chống chiến xa M72 cho tiểu đoàn 9.

Tiểu đoàn 1 pháo binh dời cả 3 pháo đội về Nam sông Mỹ Chánh thiết lập vị trí, chuẩn bị đạn dược tối đa sẵn sàng tác xạ. Trung đội công binh do Đại úy Cao Văn Tâm Tiểu đoàn phó tiểu đoàn công binh chịu trách nhiệm giật sập cầu Mỹ Chánh khi có lệnh của Lữ Đoàn.

Bộ tham mưu Lữ đoàn phối hợp với ban cố vấn cùng các đơn vị thiết kế ngay phóng đồ hỏa lực gồm mọi loại yểm trợ từ không quân chiến lược B52, không quân chiến thuật, hải pháo, pháo binh bạn và cơ hữu. Lưu ý các sĩ quan tham mưu chỉ sử dụng B52 oanh tạc các mục tiêu chiến lược như trục tăng viện, yểm trợ từ Bắc vào, khu vực Bắc Nam sát sông Bến Hải, thung lũng Khe Sanh, Lao Bảo, mật khu Ba Lòng...

Ngay sau buổi họp này, tất cả các đơn vị kể cả bộ tham mưu Lữ đoàn, ban cố vấn chỉ giữ lại dụng cụ nhẹ nhàng mang theo người được, thành phần thực sự hữu ích cho tác chiến. Còn bao nhiêu di chuyển về quận lÿ Phong Điền cách Nam sông Mỹ Chánh khoảng 9 cây số. Trung tá Đoàn Thức tham mưu trưởng Lữ đoàn được chỉ định lui về chỉ huy Bộ chỉ huy Lữ đoàn nặng cùng các trạm tiếp vận của các đơn vị tại đây, đồng thời làm trạm trung gian truyền tin giữa Lữ đoàn (tuyến Mỹ Chánh) và Bộ tư lệnh Sư đoàn (trong thành nội Huế) . Trung tá Nguyễn Xuân Phúc tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 cũng được xác nhận có quyền hạn như Lữ đoàn phó để dễ dàng phối hợp và có sự liên tục chỉ huy khi cần. Để kết thúc buổi họp, Cao Bằng mong các đơn vị cố gắng thi hành nghiêm chỉnh lệnh theo kế hoạch này và hướng về Thiếu tá Nguyễn Kim Đễ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 9 nói như sau:

- Nhiệm vụ tiểu đoàn anh khá nặng đấy, cố gắng bắn cháy hàng chục chiến xa đi, tôi hứa sẽ đề nghị Trung tướng Tư lệnh thăng cấp Trung tá cho anh.

Thiếu tá Đễ cười trả lời:
- Đại Bàng cứ yên tâm.

Tất cả mọi người trong lều đều cười vui vẻ ra về. Trong việc dụng binh thì hành quân truy kích là một hành động thừa thắng xông lên vô cùng quan trọng. Khi đã gây cho đối phương thất thế hoặc thiệt hại nặng mà phải đoạn chiến tháo lui thì ngay lập tức phải tập trung lực lượng càng nhanh càng tốt truy kích để tận diệt tiềm năng địch. Kiểu đánh rắn đánh cho dập đầu, làm cho các đơn vị của đối phương tan nát cả về vật chất lẫn tinh thần, loại khỏi vòng chiến càng lâu càng tốt, nếu có bổ sung hoặc tái lập phải mất thời gian mà thời gian là yếu tố có thể xoay chiều hẳn cuộc chiến

Cho nên trưa ngày 2/5/72 khi sư đoàn 3 bộ binh cùng lực lượng tăng phái tháo lui hỗn độn khỏi thị xã Quảng Trị thì Bộ tư lệnh chiến trường của Cộng sản Bắc Việt làm sao mà thờ ơ với cuộc truy kích này được. Cảm đoán được như vậy Lữ đoàn ra lệnh các đơn vị bắt đầu thi hành kế hoạch phòng thủ như dự định sẵn. Với thời gian 6 tiếng đồng hồ ban ngày và 12 tiếng đồng hồ ban đêm, Lữ đoàn 369 chạy đua với tử thần. Các đơn vị phải xoay hướng phòng thủ từ Tây sang Bắc, vừa đoạn chiến vừa di chuyển vào vị thế mới dưới áp lực bộ binh cùng những trận mưa pháo của địch. Đêm 2 rạng ngày 3/5/72 là đêm sống còn của Lữ đoàn 369. Chậm thì chết nhanh thì sống, ráng làm sao các đơn vị sẵn sàng được trong đội hình phòng thủ theo kế hoạch thì mới có cơ may đứng vững được. Thật là một đêm không ngủ đầy máu, mồ hôi và nước mắt.

Suốt đêm các phi cơ C130 Specter Gunship và C47 Fire Dragon được gọi tới để yểm trợ cho các tiểu đoàn 2 và 9. Hải pháo từ ngoài hạm đội 7 Hoa Kỳ cũng được chỉ định những hàng rào hỏa lực để làm tê liệt mọi hoạt động tiến công của địch. Hỏa châu đầy trời, khi sáng rực khi lập lòe như những ma trơi quái dị của núi rừng. Quả như dự đoán, mới hơn 4 giờ sáng ngày 3/5/72 thì các tiểu đoàn 2 và 9 bắt đầu bị các đơn vị tiền phong của lực lượng truy kích hùng hậu Cộng sản Bắc Việt tấn công.

Lữ đoàn lệnh cho tiểu đoàn 2 theo kế hoạch thi hành, liên lạc hàng ngang, hàng dọc để được yểm trợ hỏa lực như đã dự trù. Tiểu đoàn 9 báo cáo nhiều tiếng động chiến xa nặng của địch đang tiến lại gần, bộ binh của chúng bắt đầu tấn công mãnh liệt. Lối đánh của Cộng sản Bắc Việt thường rập khuôn theo quân đội Cộng sản Nga là tập trung tối đa hỏa lực pháo binh càng nhiều càng tốt để tiêu diệt đối thủ, thay thế cho sự kém ưu thế về không quân của họ. Các tiểu đoàn 2, 5, 9 cùng Bộ chỉ huy Lữ đoàn đều bị pháo địch vùi dập khủng khiếp. Xin hãy xem một đoạn báo cáo của Thiếu tá Bob Sheridan về những trận mưa pháo của địch như sau: “Lữ đoàn chưa bao giờ bị những trận pháo nặng nề tàn phá như vậy. Chúng tôi tưởng như trái đất đang tan ra từng mảnh xung quanh. Xe cộ, hầm hố, súng ống đang bị phá hủy. Chúng tôi tự hỏi không biết có còn ai sống để mà chiến đấu nữa không ? Điều mà tất cả có thể làm được lúc bấy giờ là moi sâu thêm hố cá nhân của mình và cầu nguyện...”.

Hai bên quần thảo nhau trên trận tuyến dài hàng chục cây số. Súng địch, pháo địch, tiếng la hét xung phong. Súng bạn, bom đạn bạn, tiếng gào thét vào máy truyền tin. Tiếng chửi thề văng tục, tiếng giây xích xiết, tiếng gầm gừ của xe tăng địch, tiếng rít cuœa máy bay bạn nhào lộn xả súng thả bom... Hỏa châu đầy trời chập chờn tắt sáng trong đêm tối mịt mùng. Một bên cố tiến lên, một bên cố chặn lại. Không lùi được nữa, nửa thước cũng không lùi, đã nói lên cái độ tàn khốc đến như núi phải động, sông phải sôi của trận chiến.

Khoảng 5 giờ 30 sáng, tiểu đoàn 9 báo cáo đã bắn cháy 2 xe tăng địch ngay sát vị trí độ hơn 100 thước, tinh thần binh sĩ lên cao vì chính tay họ hạ xe tăng địch bằng ống phóng hỏa tiễn M72. Súng lớn nhỏ vang dội ầm ì như sấm động khắp cả trận tuyến. Trời tờ mờ rồi sáng tỏ dần, Lữ đoàn liền ra lệnh cho máy bay C130 Specter Gunship và C47 Fire Dragon rời khỏi vùng để lấy chỗ cho không quân chiến thuật, pháo binh, hải pháo tự do hoạt động.

Tiểu đoàn 5 báo cáo xe tăng cùng xe lội nước địch (PT 76) xuất hiện trên giải cát phía đông quận lỵ Hải Lăng ra gần sát biển. Ngay tức khắc các phi tuần không quân chiến thuật được gửi đến dưới sự điều hướng của tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 5 và Thiếu tá Don Price cố vấn tiểu đoàn, các bom nặng được trút xuống đoàn xe tăng này. Khoảng 8 giờ sáng trong lúc địch ngớt pháo kích Thiếu tá Bob Sheridan cố vấn Lữ đoàn vẻ mặt nghiêm trang tiến đến sát Tư lệnh Lữ đoàn:

- Sir, mọi người đều bỏ lùi về phía Nam cả, Lữ đoàn mình thì sao?

Traœ lời:
- Lữ đoàn 369 là một Lữ đoàn giỏi, chúng ta không đi đâu hết, với sự yểm trợ hỏa lực của các anh, chúng tôi sẽ ngăn chặn địch ngay tại đây, không một tên Việt cộng nào có thể qua sông này được”.
- Sir yên tâm, tôi có thể nói hôm nay Sir là người có trong tay một hỏa lực mạnh nhất vùng Đông Nam Á.
- Anh nói gì tôi không hiểu ?

- Tôi vừa nhận được lệnh là tất cả 30 phi vụ B52, tất cả không quân chiến thuật ngoài hạm đội 7, các căn cứ bên Thái Lan và tất cả hải pháo dưới tàu ngày hôm nay Sir là cấp chỉ huy được ưu tiên số 1. Vậy muốn đánh đâu xin cho tôi rõ.

(Suốt thời gian chiến tranh Việt Nam, mỗi ngày Bộ tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ chỉ có 30 phi vụ B52 cho tất cả Việt Nam, Cam Bốt và Lào).

Nhận được sự ưu tiên yểm trợ hỏa lực mãnh liệt như vậy, Lữ đoàn không chậm trễ chọn ngay khoảng 20 mục tiêu cho B52 oanh tạc như các nơi nghi ngờ địch đặt kho tàng, điểm trú quân, các cơ sở chỉ huy cao cấp chung quanh khu vực gần quốc lộ 1 phía Bắc sông Bến Hải, cùng các mục tiêu khu vực sát quốc lộ 9, cửa ngõ chuyển quân từ đường mòn Hồ chí Minh (Lào) xuống các đỉnh cao phía Tây Quảng Trị. Không quân chiến thuật được tự do đánh phá tất cả các mục tiêu di động, nghĩa là quan sát thấy cái gì động đậy dưới đất là đánh liền khỏi cần hỏi ngoại trừ các làng mạc, thị xã, ranh giới từ Bắc sông Thạch Hãn đến sông Bến Hải. Từ Nam sông Thạch Hãn đến cầu Ô Khe không quân chiến thuật đánh theo nhu cầu bạn dưới đất có liên lạc điều hướng.

Khoảng 10 giờ 30 sáng, Thiếu tá Để, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 9 báo cáo không quân yểm trợ dồi dào với sự điều hướng của Thiếu tá Jim Beans cố vấn tiểu đoàn, có hơn 2O xe tăng địch vừa bị ống phóng M72 của các tổ chống chiến xa tiểu đoàn 9 vừa bị không quân đánh cháy, hư hỏng ngỗn ngang trước vị trí của tiểu đoàn. Trận chiến tiếp tục lúc mãnh liệt, lúc rời rạc như để lấy hơi. Tiểu đoàn 2, tiểu đoàn 9 luôn luôn bị bộ binh địch bám sát nên muốn đoạn chiến lui quân theo kế hoạch dự trù mà không thực hiện nổi.

Sau cùng Lữ đoàn xử dụng hàng rào hỏa lực sát phòng tuyến các tiểu đoàn, mọi loại hỏa lực yểm trợ thay phiên nhau tác xạ liên tục không ngừng để tiểu đoàn 2 và 9 có dịp đoạn chiến, lui binh về Nam sông Mỹ Chánh. Vào lúc 3 giờ chiều cả hai tiểu đoàn bắt đầu lui binh, đến 5 giờ thì tất cả đều về được bờ Nam sông Mỹ Chánh. Lữ đoàn ra lệnh cho Đại úy Tâm, tiểu đoàn phó tiểu đoàn công binh phá sập cầu Mỹ Chánh. Ranh giới đánh phá tự do của không quân chiến thuật được ấn định lại từ 1 cây số Bắc sông Mỹ Chánh thay vì từ sông Thạch Hãn về phía Bắc.

Về phía Cộng sản Bắc Việt, có lẽ họ cảm nhận thấy sự quyết tâm không lùi thêm một tấc đất nào nữa của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt họ không ngờ được là Lữ đoàn 369 lại có trong tay một khối hỏa lực tàn phá khủng khiếp đến như vậy nên đành hậm hực bỏ con mồi mà họ nghĩ rằng sẽ giết được.

Sương lam dâng lên mênh mang làm sậm dần bầu trời buồn thảm. Trận địa êm dần tiếng súng, chỉ còn vài tiếng lẻ tẻ đâu đó vọng về. Hỏa tiển 122 ly của địch vu vơ bắn vòng qua Mỹ Chánh đến quận lÿ Phong Điền. Đà tấn công của Cộng sản Bắc Việt đã thực sự bị chặn đứng. Lữ đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến vẫn còn đứng vững sau hơn 30 ngày thịt nát xương tan của mùa hè đỏ lửœa 1972 tại Quảng Trị.

Khoảng một tháng sau, người viết đã thay đổi trách vụ, có dịp tay bắt mặt mừng Thiếu tá Nguyễn Kim Để, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 9 vừa thăng cấp Trung tá. Nhân trong một buổi hội về kế hoạch tái chiếm Quảng Trị tại Bộ tư lệnh Quân đoàn I, Sư đoàn Dù báo cáo tiến quân chậm vì cầu gỗ Mỹ Chánh có những chân cột bị cháy gần tới mặt nước, Trung tướng Ngô Quang Trưởng vừa được chỉ định làm Tư lệnh Quân đoàn I cười cười nhìn người viết thân mật nói:

- Sao kỹ quá vậy Chung ?
Tôi mỉm cười trả lời:
- Cho chắc ăn Trung tướng.

Mọi người trong phòng hội đều cười ồ. Số là khi lệnh cho Đại úy Tâm phá cầu, người viết nói thêm một câu là nếu cầu không sập mà để Việt cộng xử dụng được thì cậu đi luôn đừng về gặp tôi nữa. Đại úy Tâm cẩn thận cho chắc ăn, đã vừa châm xăng vừa đặt chất nổ, ngờ đâu khi tấn công tái chiếm Quảng Trị sự phá kỹ ấy đã gây khó khăn không ít cho Công binh Việt Nam Cộng Hòa khi làm lại cầu.

MX Phạm Văn Chung

No comments:

Post a Comment