Thursday, October 18, 2018

[VNCH] Châu về hợp phố _Hà Thúc Hùng



* Trích ĐS CHSLTQN 2018

Sau khi rời trường trung học Cường Để Qui Nhơn, Trần Anh Tuấn tiếp tục vào học đại học văn khoa Sài Gòn. Đầu năm 1967, anh tình nguyện nhập ngũ khoá 24 trường Bộ Binh Thủ Đức. Cuối năm đó anh mãn khoá ra trường và được phục vụ trong binh chủng Quân Cảnh.


Tháng Ba năm 1975, trong hoàn cảnh đất nước lâm nguy, với những cuộc di tản của quân dân Miền Trung và Cao Nguyên Trung Phần đang ào ạt chạy về phía Nam. Điểm đến đầu tiên của những con tàu di tản là đảo Phú Quốc. Sau đó những người di tản sẽ tìm phương tiện để về Sài Gòn.

Thời gian nầy, Tuấn đang phục vụ tại đảo Phú Quốc. Vợ và hai con nhỏ của anh đang ở Sài Gòn, nơi mà Tuấn nghĩ rằng sẽ an toàn nhất cho gia đình anh. Không ngờ, sáng ngày 30 Tháng 4 năm 1975 lúc 10 giờ sáng, Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Hầu hết các viên chức chính quyền và quân đội VNCH đang phục vụ tại Phú Quốc phải xuống tàu hải quân, hoặc tàu đánh cá để ra tàu Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ di tản ra khỏi Việt Nam. Không còn một sự chọn lựa nào khác, Tuấn cũng phải xuống tàu, ra đi như mọi người. Anh vô cùng bàng hoàng và đau xót, vì phải bỏ lại vợ con tại Sài Gòn, không một lời từ giã. Không có một sự đau đớn nào bằng, nhưng cũng không thể ở lại để phải chết dưới tay kẻ thù một cách nhục nhã. Thôi cũng đành vậy !

Cuối năm 1976 Tuấn liên lạc được với gia đình, bằng cách gởi thư sang Pháp, nhờ một người quen ở bên Pháp chuyển thư về Sài Gòn cho vợ anh. Lúc nầy đã có phong trào vượt biển đi tìm TỰ DO. Tuấn viết thư cho vợ và nói một cách khéo léo để vợ anh hiểu rằng cần phải tìm cách dẫn hai con đi vượt biển, để có cơ hội vợ chồng, con cái được đoàn tụ trên vùng đất của thế giới tự do. Năm 1977 anh nhận được thư của mẹ anh cho biết : vợ và hai con anh đã rời Việt Nam, trên một chuyến tàu vượt biên phát xuất từ Rạch Giá. Anh rất vui mừng và tràn đầy hy vọng. Từ đó ngày đêm anh nguyện cầu ơn trên phù hộ để sớm được gặp lại vợ con thân yêu của mình. Anh hy vọng một ngày kia, sẽ nhận được lá thư của vợ anh từ một trại tỵ nạn nào đó. Nhưng chờ và chờ mãi mỏi mòn, anh vẫn không thấy tăm hơi gì về tin tức vợ con. Anh đâm ra hoảng hốt lo âu. Anh nhờ đến hầu hết các hội thiện nguyện, thường liên lạc để giúp đỡ đồng bào anh ở các trại tỵ nạn Đông Nam Á. Nhưng mãi họ không tìm ra tin tức gì về vợ con anh.

Trong khi đó báo chí, cũng như đài phát thanh BBC, VOA nói nhiều về thảm cảnh của những con tàu gỗ nhỏ bé, mong manh khốn khổ, trên biển Đông của những người tỵ nạn Việt Nam, bị chết chìm trên biển đại dương ngày càng nhiều vì gió to, sóng lớn,bão táp và hải tặc Thái Lan cướp bóc hãm hiếp, v.v... lòng anh nóng như lửa đốt, tâm trí anh hoảng loạn... Những con người VN vượt biên, vượt biển, phải đánh đổi cả sinh mạng của mình để tìm hai chữ TỰ DO quá đắt giá. Nhưng Tuấn vẫn còn cố ôm ấp một chút hy vọng mong manh là may ra có thể tin tức sẽ đến chậm cũng nên (?), nhưng rồi dần dần càng về sau, càng chờ đợi vẫn không thấy tin tức gì về vợ con, anh càng thất vọng và cuối cùng là hoàn toàn tuyệt vọng. Kể từ ngày đó đến nay đã gần bốn mươi năm, Tuấn vẫn sống độc thân. Anh chán ngán cho cuộc đời và cảm thấy như mình được sinh ra “lầm thế kỷ”.

Từ ngày đến tái định cư tại Hoa Kỳ mấy chục năm qua, Tuấn vẫn cư ngụ tại thành phố Falls Church, Arlington,Virginia, rất gần thủ đô Washington DC. Anh có thay đổi nhà ở vài lần, nhưng vẫn quanh quẩn trong thành phố nầy, không đi ra ngoài tiểu bang. Ngoài thời gian đi làm việc vì sinh kế,thời gian còn lại,Tuấn luôn hăng say hoạt động công tác xã hội, liên quan đến cộng đồng Việt Nam tỵ nạn cộng sản. Nhất là công tác tranh đấu cho TỰ DO và NHÂN QUYỀN cho đồng bào ở quê nhà.

Hôm nay đầu tháng 7-2015 tin tức từ cộng đồng VN cho biết : Tổng Bí Thư đảng CSVN sắp đến thăm Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng Thống Obama. Cộng đồng VN ở nhiều tiểu bang trên nước Mỹ đang chuẩn bị để về thủ đô Hoa Thịnh Đốn, biểu tình trước toà Bạch Ốc cho vấn đề NHÂN QUYỀN của nhân dân Việt Nam vào ngày 6 tháng 7. Tuấn cũng sẵn sàng để cùng mọi người về thủ đô biểu tình, vì bây giờ anh hoàn toàn rảnh rỗi. Anh đã nghỉ hưu từ hai năm qua, lại vẫn độc thân nên chẳng có gì bận bịu cả. Từ trước đến nay, cứ mỗi lần tụ họp người đồng hương từ các tiểu bang khác đến, Tuấn luôn luôn chú ý tìm kiếm người quen hay bạn bè trong số người đông đúc ấy. Bằng cách đó trong những lần trước, anh đã gặp được một số bạn bè lưu lạc nơi quê người, đã xa cách nhau mấy chục năm mới gặp lại lần đầu. Thật vui mừng và xúc động...

Ngày 7 tháng 7 trước tòa Bạch Ốc, cờ Mỹ, cờ vàng VNCH, băng-rôn khẩu hiệu rợp trời. Tuấn nhìn thấy một người đàn bà khoản chừng sáu mươi tuổi, nổi bậc trong nhóm người thuộc tiểu bang New york. Nàng đang hăng say hô khẩu hiệu. Như có thần giao cách cảm làm Tuấn phải chú ý... Anh linh cảm như người đàn bà nầy có quen biết gì đó với anh (?). Chỗ người đàn bà nầy đứng cách chỗ anh chừng một trăm thước. Vì vậy anh tìm cách men đến gần, để nhìn cho rõ mặt. Khi đến gần, anh nhìn kỹ người đàn bà, người nầy cũng nhìn chăm chú anh... Đột nhiên Tuấn hỏi : “Xin lỗi, có phải bà là Dạ Thảo đó không ?”. Người đàn bà cũng hỏi lại anh : “Có phải ông là Tuấn đó không ?”. Cả hai cùng nhào đến nắm tay nhau... Dường như họ muốn ôm chầm lấy nhau, nhưng vì họ ngại chỗ đông người, không tiện làm như vậy. Họ trao đổi số điện thoại cho nhau và hẹn gặp lại sau cuộc biểu tình nầy để có thì giờ nói chuyện nhiều. Từ giờ phút đó trở đi, đầu óc Tuấn cứ miên man nghĩ đến thời quá khứ vàng son mộng mơ của tuổi học trò...

Sau cuộc biểu tình, hai người hẹn gặp nhau tại một tiệm ăn trong Eden Center để ăn trưa và ăn xong, Tuấn mời Dạ Thảo về nhà anh uống trà và nói chuyện. Nhà Tuấn chỉ cách Eden Center chừng mười phút lái xe. Tại nhà Tuấn, hai người nói chuyện với nhau suốt cả buổi chiều và mấy tiếng đồng hồ đêm hôm đó, vẫn chưa hết chuyện để nói. Sáng hôm sau Dạ Thảo mới trở về New York được.

Trước tiên, hai người kể cho nhau nghe về hoàn cảnh gia đình và bản thân của họ hiện tại. Tuấn kể cho Dạ Thảo nghe về trường hợp của anh năm 75 phải di tản một mình từ Phú Quốc rời khỏi VN và sau đó vợ con anh đã mất tích trên đường vượt biển tìm tự do. Từ đó anh vẫn sống độc thân cho tới bây giờ. Dạ Thảo thì kể cho Tuấn nghe hoàn cảnh của nàng từ sau năm 75 cho đến bây giờ. Năm 75, chồng Dạ Thảo cũng vào trại tù, nhưng chỉ chưa đầy hai năm thì được phóng thích. Vì anh chỉ là Phó Trưởng Ty Công Chánh, chưa vào quân ngũ, nên không bị nhốt lâu dài. Sau khi về nhà một thời gian, hai vợ chồng Dạ Thảo mang hai con vào Nha Trang vượt biển thành công và được tái định cư tại New york từ năm 1981, cho đến năm 2005 thì chồng nàng qua đời vì một cơn bạo bệnh. Từ đó nàng vẫn sống độc thân cho đến bây giờ. Hai con nàng cũng đã trưởng thành và đã có gia đình riêng. Nàng cũng vừa mới nghỉ hưu sớm.

Dạ Thảo bây giờ tuy đã 62 tuổi, nhưng nàng vẫn còn giữ được vài nét yêu kiều, thuỳ mị xinh đẹp của ngày xưa, nên Tuấn đã nhận ra nàng trong đám đông sáng nay khá dễ dàng. Cuộc tao ngộ bất ngờ đã khiến trong ký ức của hai người hiện lên đầy đủ tất cả kỷ niệm buồn vui của một thời quá khứ vàng son trong tuổi học trò và nhất là kỷ niệm của mối tình đầu giữa Tuấn và Dạ Thảo. Mối tình đẹp như một bài thơ tuyệt tác, mối tình đầy thơ mộng... Họ trao cho nhau niềm hạnh phúc tuyệt vời. Nhưng cuối cùng họ đã phải chia ly trong đau khổ và đầy nước mắt vì một sự bẽ bàng rất vô lý : khác tôn giáo.

Vào thập niên 60, Trần Anh Tuấn là học sinh trường trung học Cường Để và Lê Thị Dạ Thảo là nữ sinh trường trung học tư thục Bồ Đề, Qui Nhơn. Tuấn học trên Dạ Thảo ba lớp. Nhà anh rất nghèo, anh muốn tìm một chỗ dạy kèm tại tư gia một ít giờ hằng tuần, ngoài thời gian đến lớp. Anh định dạy kèm, kiếm thêm hằng tháng một ít tiền để tiêu vặt và mua ít sách vở khi cần. Anh không muốn tạo thêm gánh nặng cho gia đình, vì anh còn hai đứa em gái cũng đang đi học. Tuấn thổ lộ điều đó với một người bạn thân, học cùng lớp và ngồi cùng bàn cạnh anh. Thế rồi mấy ngày sau, người bạn cho biết đã tìm được cho anh một chỗ dạy kèm, gia đình nầy ở gần cuối đường Phan Bội Châu, cách nhà thờ chánh toà Qui Nhơn chừng vài trăm thước. Gia đình có một cô con gái đang học lớp Đệ Tứ trường tư thục Bồ Đề.

Năm đó, 1964 vào một chiều thứ bảy, người bạn đưa Tuấn đến gia đình cô gái để giới thiệu với Ba Mẹ cô về người gia sư, sắp dạy kèm cho con họ và giới thiệu cô học trò tương lai của Tuấn : cô nữ sinh Dạ Thảo. Giây phút đầu tiên gặp Dạ Thảo, những cảm xúc âm thầm trong tiềm thức của Tuấn : một thiếu nữ đẹp với nét thuỳ mị, một chút bối rối trên gương mặt trái xoang, đôi má bầu bỉnh lúm đồng tiền, nụ cười e ấp, pha lẫn một chút thẹn thùng vì lần đầu gặp gỡ... Đôi mắt nàng đượm một chút u hoài như mặt nước hồ thu đầy mơ mộng. Mái tóc nàng đen huyền phủ kín bờ vai thon nhỏ. Tất cả hiện lên trong tâm hồn Tuấn, như một bức tranh giai nhân tuyệt mỹ... làm Tuấn ngẩn ngơ trong chốc lát. Anh cố gắng trấn tĩnh và hỏi nàng cần học thêm những môn học nào. Nàng cho Tuấn biết hiện tại nàng cần học thêm về môn TOÁN và QUỐC VĂN.

Sau một thời gian dạy kèm, Tuấn nhận thấy Dạ Thảo là một cô gái thông minh, giản dị, không kiểu cách, tình cảm dạt dào. Anh rất mến Dạ Thảo và anh cảm thấy như Dạ Thảo cũng mến anh. Dần dần những ngày trong tuần, từ Thứ hai đến thứ sáu, không gặp nhau, Tuấn cảm thấy như thiếu vắng một cái gì, làm cho tâm hồn anh lơ lửng... Chiều thứ bảy gặp nhau, Tuấn cảm thấy vui vui và anh cũng nhận thấy dường như Dạ Thảo cũng vui mừng hơn bình thường. Những nét khác thường nầy được thể hiện qua nụ cười và đôi mắt xinh đẹp của nàng.

Thời gian trôi qua, càng ngày cả hai cùng quyến luyến nhau nhiều hơn, được biểu lộ trong lời nói và cử chỉ của nhau trong giờ học... Sau 6 tháng dạy kèm, Tuấn cảm thấy anh yêu Dạ Thảo và anh biết Dạ Thảo cũng yêu anh. Nhưng anh rất ngại ngùng và chưa biết cách nào để tỏ tình với nàng. Có nhiều lúc anh dự định hôm nào sau buổi học, khi ra về, lúc nàng tiển anh ra cửa, anh sẽ nói với nàng chỉ ba tiếng ngắn ngủi “Anh yêu em”, nhưng rồi lần nào cũng vậy, trước khi định mở lời, anh lại cảm thấy trống ngực đập thình thịch, rồi lại không nói được. Có lẽ Dạ Thảo cũng đoán được điều đó và nàng cũng đang chờ đợi một câu tỏ tình của Tuấn.

Thế rồi một hôm vào chiều thứ bảy, sau giờ học Việt Văn, trước khi ra về, Tuấn đã dùng hết sự can đảm, nhưng tay anh vẫn run run khi trao cho nàng mảnh giấy nhỏ với mấy câu thơ vụng về anh đã viết đêm qua :


Anh yêu cây cỏ về đêm

Sương khuya hương ngát dáng em dịu hiền

Đôi ta lạc lối Đào Nguyên

Cùng nhau đến chốn thần tiên lâu đài


Chiều hôm đó, trở về nhà trọ, gần như suốt đêm, Tuấn thao thức mãi, không ngủ được. Mặc dù Tuấn đã đoán trước đến chín mươi tám phần trăm là Dạ Thảo cũng yêu anh, nhưng anh vẫn lo ngại. Hôm sau, chiều chúa nhật, đến nhà Dạ Thảo, Tuấn thật hồi họp và lo sợ : nếu nàng từ chối thì ta còn mặt mũi nào để tiếp tục dạy kèm nữa ! Anh cảm thấy tim đập mạnh khi anh bước chân vào cửa nhà nàng. Nhưng sau đó mọi diển biến đều khác với điều anh lo sợ. Dạ Thảo mỉm cười, hai má nàng ửng hồng như vừa sung sướng vừa thẹn thùng... Trông nàng đẹp hơn những ngày trước đây. Đôi mắt nàng nhìn anh với sự trìu mến khác thường, như báo hiệu cho anh biết Dạ Thảo đã yêu anh. Ước gì anh được ôm hôn nàng, để cám ơn nàng đã trao cho anh một tình yêu tuyệt vời !!! Nhưng anh không dám nghĩ đến bất cứ một cử chỉ nào sổ sàng, vì anh đang yêu nàng bằng một tình yêu cao thượng.

Chiều hôm qua, sau khi Tuấn ra về, Dạ Thảo đọc mấy câu thơ của anh, nàng hiểu ngay “cây cỏ về đêm” chính là tên của nàng. Dạ Thảo đã hiểu Tuấn yêu nàng và mơ ước được cùng với nàng đi cho đến lâu đài hạnh phúc của ái tình. Ôi ! Một tình yêu đầy thơ mộng và tuyệt vời... Dạ Thảo và Tuấn, cả hai đều chưa yêu ai trước đó. Đây là mối tình đầu của họ. Từ đó cả hai cảm thấy yêu đời hơn trước. Men rượu tình yêu đối với họ bây giờ thật ngọt ngào, càng say càng muốn uống...

Gia đình Dạ Thảo là tín đồ Thiên Chúa Giáo ngoan đạo. Sau khi nàng và Tuấn yêu nhau, mỗi sáng chúa nhật đi nhà thờ, Dạ Thảo thường lâm râm cầu nguyện, xin Chúa ban phước lành để tình yêu của nàng và Tuấn luôn luôn được toại nguyện...

Từ ngày yêu nhau đến giờ, Dạ thảo chưa bao giờ đề cập đến vấn đề tín ngưỡng mỗi khi nói chuyện với Tuấn. Bởi vì, đối với nàng, một tình yêu chân thành và chung thuỷ mới là điều quan trọng, còn vấn đề tín ngưỡng, không có gì phải bận tâm. Tuy nhiên, trước đây nàng đã thấy vài cuộc hôn nhân được làm phép hôn phối tại nhà thờ giáo xứ, mà một trong hai là người ngoại đạo, thì người đó phải được vị linh mục rửa tội và trở thành tín đồ Thiên Chúa Giáo trước khi làm phép hôn phối.

Ngày lễ Phật Đản vừa qua, hôm đó Dạ Thảo và mấy người bạn gái cùng lớp đi dạo chơi qua chùa Long Khánh, bất ngờ nàng gặp Tuấn đang lễ Phật trong chùa. Và cũng từ đó nàng đâm ra lo lắng... chẳng biết tinh yêu của mình có bị cản trở bởi vấn đề tín ngưỡng không . Có nhiều lần nàng định nói chuyện với Tuấn về vấn đề nầy để tìm phương cách giải quyết trong tương lai, nếu gặp trở ngại. Nghĩ đi nghĩ lại rồi nàng lại thôi không hỏi. Nàng cũng không muốn Tuấn phải lo lắng, để chàng yên tâm học hành. Và cũng từ ngày đó, họ cảm thấy mỗi tuần, chỉ gặp nhau có hai lần vào chiều thứ bảy và chiều chuá nhật, hình như quá ít đối với họ. Nhất là trong giờ học họ đâu dám nói chuyện linh tinh, sợ bất ngờ mẹ nàng nghe được thì thật là phiền. Vì vậy họ trao đổi nhau thời khoá biểu cho nhau, để cả hai đều biết giờ học của nhau, thỉnh thoảng họ hẹn gặp nhau vào một giờ nào đó tại bãi biển Qui Nhơn sau khi tan trường, để nhìn nhau và nói với nhau một vài câu tình tứ yêu thương...

Khi yêu nhau, một ngày không gặp nhau đã thấy nhớ nhau nhiều. Có những đêm sau khi học bài khuya, căn nhà trọ trở nên vắng lặng, Tuấn cảm thấy nhớ Dạ Thảo da diết. Hôm sau gặp nhau, Dạ Thảo thú nhận sự nhớ nhung của mình đối với Tuấn cũng như vậy.

Thời gian thấm thoát trôi qua, niên học rồi cũng cũng chấm dứt. Năm đó cả hai thật vui mừng, Dạ Thảo đậu bằng Trung học đệ nhất cấp và Tuấn cũng đỗ Tú tài 2. Vui mừng nhất là Ba Mẹ của Dạ Thảo. Họ mời Tuấn, bạn thân của Tuấn, người đã giới thiệu Tuấn đến dạy kèm cho Dạ Thảo và mấy cô bạn gái của Dạ Thảo đến ăn tiệc mừng tại nhà hàng Ngũ Châu trên đường Gia Long Qui Nhơn và cũng để cám ơn Tuấn.

Sau kỳ nghỉ hè năm đó, Tuấn rời Qui Nhơn, vào Sài Gòn, anh xin dạy một ít giờ ở một trường tư thục và tiếp tục học đại học Văn Khoa. Dạ Thảo thì tiếp tục học lên Đệ Tam. Trong thời gian Tuấn học ở Sài Gòn, hai người vẫn tiếp tục liên lạc thư từ qua lại đều đặng. Trong thư Dạ Thảo có đề cập đến sự khó khăn có thể xảy ra ngăn chận mối tình của hai người khi tiến đến ngưỡng cửa của hôn nhân: vấn đề tôn giáo khác biệt. Dạ Thảo sau đó đã viết thư cho Tuấn biết rằng nàng đã thú nhận với Ba Mẹ về chuyện tình của nàng với Tuấn từ lâu nay, luôn cả vấn đề tín ngưỡng của Tuấn. Mẹ nàng đã trả lời dứt khoát rằng: nếu Tuấn muốn cưới Dạ Thảo, bà sẽ sẵn sàng chấp nhận, với điều kiện là Tuấn phải được một linh mục rửa tội, để chính thức trở thành một tín đồ Thiên Chúa Giáo và ngày cưới phải được làm phép hôn phối tại nhà thờ xứ đạo. Dứt khoát phải tiến hành cuộc hôn nhân theo cách đó, không thể làm khác hơn được ! Trong thư, Dạ Thảo cũng đề nghị Tuấn nêu vấn đề nầy với Ba Má anh xem thử gia đình anh quyết định như thế nào.

Từ đó, cả Tuấn và Dạ Thảo đều cảm thấy như linh tính đã báo trước cho họ biết rằng cuộc tình của họ đang vấp phải nhiều chông gai, rất khó vượt qua. Chiếc xe hoa để đưa cặp tình nhân yêu nhau đến lâu đài hạnh phúc, còn quá xa vời, khó mà bước lên được ! Tuấn cũng đã viết thư thưa với song thân của anh về chuyện khó khăn nầy và tha thiết xin phép Ba Má anh cho phép anh được rửa tội để trở một tín đồ Thiên Chúa Giáo, để được cưới Dạ Thảo, người yêu của anh. Trong thư anh ca ngợi con dâu tương lai của Ba Má anh như là một cô gái hoàn toàn, xuất sắc về mọi phương diện. Nhưng Ba Má anh đã dứt khoát trả lời một tiếng “KHÔNG”, với lý do rằng anh là con trai duy nhất của ông bà và là con trưởng trong gia đình, anh không thể làm như vậy ! Thế là cả Dạ Thảo và Tuấn đều hoàn toàn thất vọng. Họ vô cùng đau khổ. Mối tình của họ đã kéo dài đến ba năm rồi, tình yêu mỗi ngày một đắm say hơn. Họ mơ ước một tương lai tràn đầy hạnh phúc, nhưng xem ra vô cùng khó khăn, hầu như đã tuyệt vọng.

Đến nay, Tuấn đã lấy xong hai chứng chỉ Văn Khoa. Anh dự định sau khi hoàn tất cử nhân Văn Khoa, anh sẽ xin cưới Dạ Thảo, anh sẽ xin đi dạy tại một số trường trung học tư thục tại Sài Gòn. Vợ chồng anh sẽ sống hẳn tại Sài Gòn và anh sẽ vừa đi dạy học, vừa tiếp tục học tại đại học Luật Khoa. Nhưng với hoàn cảnh hiện tại, anh linh cảm giấc mộng không thành ! Đã nhiều đêm anh tự hỏi : tại sao lại có chuyện vô lý như thế ? Tại sao tình yêu và tín ngưỡng lại bị ràng buộc trong một quy luật tôn giáo vô lý như vậy ? Anh tự hỏi một cách tức tối, nhưng mãi mãi không thể trả lời được.

Đang học cho chứng chỉ năm thứ ba, hôm nay Tuấn nhận được Thư của Dạ Thảo :


Qui Nhơn, ngày... tháng... năm 1967

Anh Tuấn thương,

Đã hai đêm rồi, em không thể chợp mắt, em khóc gần như suốt đêm. Cách đây vài ngày, một người bạn thân của Ba Mẹ đến thăm gia đình em. Trong câu chuyện hàn huyên, vợ chồng ông ta ngỏ lời muốn làm thông gia với Ba Mẹ em. Nghĩa là muốn xin cưới em cho người con trai của ông bà vừa mới đỗ bằng kỷ sư công chánh, đang chờ nhận nhiệm sở.

Lời cầu hôn đó, trên nguyên tắc, coi như đã được Ba Mẹ chấp thuận. Ba Mẹ hỏi ý kiến em, em cương quyết từ chối với lý do em chưa bao giờ có tình yêu với anh ta !!!

Nhưng suốt mấy ngày nay, cứ đi học về là nghe giảng “moral”, thật điên cái đầu, nhưng chưa biết cách nào để giải toả khó khăn đang cản bước chúng ta. Em buồn quá ! Hạnh phúc nào mà không chen lẫn mầm móng của sự khổ đau,phải không anh ? Chúng ta yêu nhau đã ba năm dài, biết bao nhiêu là kỷ niệm, không lẽ chúng ta phải buông xuôi, để chấp nhận những ngang trái như là một sự an bài của định mệnh ? Anh có cách nào để giải tỏa hoàn cảnh bẽ bàng nầy không ? Em thật rối trí ! Có một giải pháp em thoáng nghĩ qua, nhưng em liền huỷ bỏ ngay trong đầu óc mình : đó là từ bỏ gia đình để ra đi theo tiểng gọi của con tim. Nghĩ lại có lẽ em không làm được điều đó, mặc dù em rất yêu anh... Em sẽ chết mất một nửa tâm hồn khi phải xa anh vĩnh viễn ! Viết thư cho em gấp. Yêu anh thật nhiều.

Em của anh,

Dạ Thảo


Đọc đi đọc lại bức thư của Dạ Thảo nhiều lần, Tuấn vẫn không tìm được cách nào để vượt qua nỗi khó khăn nầy. Anh thở dài chán chường. Thôi đành buông xuôi cho định mệnh... Anh viết thư cho Dạ Thảo :


Sài Gòn, ngày... tháng... năm 1967

Dạ Thảo yêu dấu của anh,

Đọc thư em anh buồn quá ! Anh đã khóc trong tâm hồn nhiều đêm nay. Cũng như em, anh không còn có một giải pháp nào cả. Có lẽ chúng ta không thể nào vượt qua nổi sự an bài khắc nghiệt của định mệnh. Anh cũng đồng ý với em là chúng ta không thể từ bỏ gia đình để chạy theo tiếng gọi của con tim, để tạo niềm đau khổ cho đấng sinh thành, là điều mà chúng ta không nên làm. Thà rằng chúng ta chấp nhận sự đau khổ vì tình yêu dang dở.

Em yêu của anh ! Chúng ta đành chịu thất bại trước một quy luật vô lý của tôn giáo. Nhưng dù mối tình đầu dang dở, dù chúng mình phải ngàn trùng xa cách... hình ảnh của em sẽ không bao giờ phai nhoà trong trái tim anh. Ký ức của anh sẽ ghi nhớ mãi mãi về em, người con gái đã trao cho anh một tình yêu tuyệt vời... Trên bầu trời có bao nhiêu vì sao thì anh yêu em bấy nhiêu !

Hãy chấp nhận một duyên số đã được an bài !!!

Trước khi vĩnh viễn chia xa trong nước mắt và đau khổ, anh xin tặng em một bài thơ để nói lên tâm tư của anh trong hiện tại và mãi mãi :


Dang dở

Mộng tình ôm ấp đã ba năm
Thư tình qua lại đã trăm lần
Thôi hết, giờ đây hồn nhỏ lệ
Đau buồn khô héo cả thâm tâm

Mộng đang xanh, mộng bỗng úa vàng
Dệt mộng bao ngày, nay dở dang
Tất cả chỉ còn là kỷ niệm
Đào Nguyên Tiên Cảnh đã hoang tàn !

Em nhé ! Từ đây ta cách xa
Ngày mai em sẽ lên xe hoa
Bánh xe nghiền nát tình yêu cũ
Cắt đoạn tơ lòng ta với ta !

Xác pháo vu quy màu đỏ thắm
Đốt cháy tình yêu tuổi mộng mơ
Tình đầu tan vỡ ra từng mảnh
Anh gom trăm mảnh viết thành thơ

Tặng em như chút quà lưu niệm
Trước lúc nghìn trùng xa cách nhau
Anh chúc em tràn đầy hạnh phúc
Quên đi tình cũ thuở ban đầu

Những bức thư tình anh vẫn giữ
Kỷ niệm ba năm một chút nầy
Riêng anh, mãi mãi anh ghi nhớ
Hình bóng em yêu, anh đắm say

Thôi hết ! Tình yêu tuổi học trò
Đường đời xuôi ngược nẻo bơ vơ
Biết sao cho trọn niềm mơ ước !
Như buổi đầu tiên ta hẹn hò ?


Hôm đó, một buổi chiều thứ bảy, bầu trời âm u, với cơn mưa đầu mùa lất phất bên ngoài, như gợi cho lòng người một nỗi buồn cô quạnh. Dạ Thảo đang đọc bức thư, với nét chữ quen thuộc thân thương cuối cùng của người yêu và bài thơ của Tuấn tặng cho Dạ Thảo, gần đó bên ngoài tiếng chuông nhà thờ chánh toà ngân nga trong bầu trời ảm đạm, khiến tâm hồn nàng trở nên băng giá...

Riêng phần Tuấn, sau khi gởi bức thư cuối cùng cho Dạ Thảo, anh bỏ học và nộp đơn tình nguyện nhập ngũ vào khoá 24 trường bộ binh Thủ Đức. Anh mãn khóa ra trường cuối năm đó.

Hôm nay, trong cuộc tao ngộ bất ngờ của đôi nhân tình yêu nhau tha thiết, nhưng đành phải chia lìa cách đây gần nửa thế kỷ. Cả hai đều cảm thấy như họ bị ràng buộc bởi mối duyên nợ ba sinh từ kiếp trước. Bởi vì cả hai người hiện nay đều sống độc thân và cô đơn : Tuấn vẫn sống độc thân, từ ngày vợ con anh mất tích trên đường vượt biển đi tìm tự do và để sum hợp với chồng như đã nói ở trên. Còn Dạ Thảo thì sau khi cùng chồng và hai con thành công trong cuộc vượt biển đi tìm tự do. Năm 1981 gia đình nàng đến Hoa Kỳ, tái định cư tại New York, cho đến năm 2005 thì chồng nàng qua đời vì một cơn bạo bệnh. Từ đó nàng vẫn sống độc thân, nuôi dạy các con. Nay hai con nàng đã trưởng thành và có gia đình riêng.

Cả hai người đều cô đơn và biết được hoàn cảnh của nhau hiện tại, Tuấn ngỏ lời cùng Dạ Thảo xin được nối tiếp cuộc tình dang dở cách nay 48 năm về trước (những lời tỏ tình bây giờ không khó khăn và run sợ như thuở học trò trong mối tình đầu vụng dại). Dạ Thảo hẹn sẽ về hỏi lại ý kiến các con và sẽ gọi điện thoại trả lời Tuấn trong vòng một tuần lễ.

Tuần sau, chuông điện thoại của Tuấn reo. Anh nghe điện thoại. Bên kia đầu dây, Dạ Thảo nhận lời cầu hôn của Tuấn. Sau đó, họ chẳng cần tổ chức một đám cưới theo nghi lễ và thủ tục bình thường, họ cũng không cần một chiếc xe hoa, như họ đã từng mơ ước trong những ngày họ mới yêu nhau nửa thế kỷ về trước. Họ chỉ tổ chức một bữa tiệc đơn sơ tại một nhà hàng trong Eden center, thuộc thành phố Falls Church của tiểu bang Virginia. Khách được mời trong bữa tiệc gồm có : Bạn bè của Tuấn và bạn bè của Dạ Thảo cùng gia đình hai đứa con của nàng. Họ giới thiệu bạn bè và chúc tụng cho nhau những lời cầu chúc tốt đep nhất.

Bên ngoài, bầu trời hôm nay quang đãng, một ngày mùa xuân trên đất nước Hoa Kỳ tự do, bướm hoa rực rỡ trong vũ trụ và cũng là mùa xuân tươi đẹp trở lại trong tâm hồn của hai kẻ yêu nhau trước đây, đã phải nếm trải niềm đau thương cay đắng của mối tình đầu dang dở.

Hôm nay CHÂU ĐÃ VỀ HỢP PHỐ !


Virginia, Mùa Giáng Sinh 2017

HÀ THÚC HÙNG
www.lientruongquinhon.com/

No comments:

Post a Comment