Sunday, November 22, 2020

Phỏng vấn nhạc sĩ Tuấn Khanh, tác giả của “Chiếc lá cuối cùng” _Trịnh Thanh Thủy

Nhạc sĩ Tuấn Khanh, tác giả của “Chiếc lá cuối cùng".

“Lá trên cành một chiếc cuối bay xa”. Hình ảnh chiếc lá vàng cuối rời cành, cuốn vào gió, theo chân người tình trong một chiều ly biệt, là một hình ảnh lãng mạn nhưng đắng lòng. Nó cũng là một lời tiễn đưa câm, dấu chấm than của câu chuyện tình đã kể xong.


Nhạc sĩ Tuấn Khanh, tác giả của ca khúc “Chiếc lá cuối cùng” đã chấm hết ca khúc của ông bằng câu hát này. Ông cũng là tác giả của nhiều tình khúc buồn da diết và day dứt khác như “Nhạt nhoà”, “Nỗi Niềm”, “Dưới giàn hoa cũ” hay “Hoa Soan bên thềm cũ”, “Quán nửa khuya”..v..v..


Tuấn Khanh, tên thật Trần Ngọc Trọng, sinh năm 1933 Ngoài viết nhạc, ông còn là một ca sĩ với nghệ danh Trần Ngọc.


Năm 1953, ông giành giải nhất của đài phát thanh Hà Nội về giọng hát. Nhạc phẩm đầu tiên của ông là "Đò ngang" (viết cùng Y Vân). Ông định cư tại California, Hoa Kỳ. Tại đây, ông mở một tiệm phở mang tên "Hoa soan trên thềm cũ". Ông còn có các bút danh khác nhau như, Thương Hoài, Trần Kim Phú, Hoàng Mộng Ng…v..v..


Trịnh Thanh Thủy: T được biết chú học vĩ cầm từ nhỏ và được giải nhất của đài phát thanh Hà Nội năm 1953 về giọng hát. Chú có thể kể kỷ niệm đáng nhớ ngày chú đoạt giải nhất không?


Tuấn Khanh: Ngày ấy cuộc thi có 120 người phải qua 3 vòng thi: Sơ kết(chọn ra 25 thí sinh), bán kết(chọn ra 8), chung kết(chọn hạng 1,2,3) và gia đoạn cuối biểu diễn. Qua hai vòng đầu tôi đạt giải nhất và cô Thanh Hằng đoạt giải nhì. Khi đến vòng chung kết và biểu diễn chỉ còn 8 người thì tôi gặp chuyện rắc rối, xui xẻo. Nguyên nhân, sau này do ông Thẩm Oánh kể lại tôi mới biết. Số là tác giả bài hát “Tan Tác” lúc ấy là Tu Mi vì muốn đền ơn, trả nghĩa cho cô Thanh Hằng đã giới thiệu cô bạn gái cho ông, nên ông nhúng tay vào phá bỉnh trong phần biểu diễn của tôi. Ông Tu Mi có quen một chuyên viên âm thanh lo phần kỹ thuật cho đài phát thanh Hà Nội. Ông ta bảo với người ấy rằng cứ đi đi để ông ấy trông nom hộ. Khi dự thi tôi mang số báo danh là 1, cô Thanh Hằng là 2. Người mang số 8 thi đầu, người kế tiếp mang số 7, và cứ thế tiếp tục. Mọi chuyện đều xảy ra tốt đẹp tuy nhiên đến lúc tôi cầm micro hát chót thì có chuyện.  Tôi hát bài “Cánh chim giang hồ” của Ngọc Bích. Khi tôi mới cất lời “Lờ lững cánh chim giang hồ bay.”, thì micro tắt tị. Ngày ấy hệ thống âm thanh có những chiếc bóng đèn nhỏ thay vì các hàng nút. Chỉ cần xoay lỏng 1 trong những chiếc bóng đèn đó, thì âm thanh đã khác, hoặc tắt hẳn. Ông Tu Mi vặn cái bóng đèn lỏng ra, dòng điện lỏng bị ngắt nên micro không ra tiếng nữa. Tôi bị khớp và mất tinh thần. Ban kỹ thuật ra công sửa, xong tôi phải hát lại. Nhạc vừa dạo, tôi hát “Lờ lững cánh chim giang hồ bay, về phía chân trời xa tắp mây…”. Micro lại hỏng tiếp. Hồn vía tôi tiếp tục lên mây. Cứ thế , tất cả là 3 lần. Kết quả vòng biểu diễn tôi bị xếp hạng nhì. Một thời gian sau, ông kỹ thuật viên tiết lộ bí mật với ông Thẩm Oánh là phó giám đốc đài phát thanh kiêm chánh chủ khảo cuộc thi, việc ông Tu Mi đã cố tình nhúng tay vào. Khi di cư vào Nam, ông Thẩm Oánh gặp tôi có đến bắt tay xin lỗi, kể lại và cải chính lẽ ra tôi được hạng nhất mà vì lý do kỹ thuật đáng tiếc như vậy xảy ra.


TTT: Trong cuộc thi có Anh Ngọc và Hoàng Giác tham gia không chú?


TK: Cả hai đều không tham dự. Thời điểm đó người ta gọi ca sĩ nổi tiếng là tài tử hay danh ca. Ca sĩ Anh Ngọc lúc ấy đã nổi tiếng trong Nam được gọi là tài tử Anh Ngọc, trong khi ngoài Bắc có tài tử Ngọc Bảo. Cũng như trong Nam có danh ca Minh Trang(mẹ của ca sĩ Quỳnh Giao, vợ nhạc sĩ Dương Thiệu Tước), ngoài Bắc có danh ca Minh Đỗ(dì của Kim Tước). Hoàng Giác cũng đã nổi tiếng rồi. Khi ấy ông vừa sáng tác bài “Quê Hương”.


TTT: Sau khi đoạt giải và trở thành một ca sĩ nổi tiếng? Chú có tiếp tục sự nghiệp ca hát của mình không và hát ở đâu? Bài nào chú hay hát thời đó? Giữa ca sĩ và nhạc sĩ, nếu phải chọn một chú nghiêng về phía nào hơn? 


TK: Vào trong Nam tôi hát ở các ban nhạc như Bảo Chính Đoàn của Hoàng Trọng, Vũ Văn Tuynh, Vũ Nhân, Hoàng Hưng… Tôi bắt đầu sáng tác nhưng chỉ ngầm thôi. Người khai tâm âm nhạc cho tôi là bác sĩ Tuấn, anh tôi. Ngay từ lúc 10 tuổi tôi có thể cầm một bản nhạc mà xướng thanh ngay. Những bài tôi hát thuở đó thường là: “Mơ hoa” của Hoàng Giác, “Một chiều thu” của Nhật Bằng, “Nỗi lòng” của Nguyễn Văn Khánh, “Người về” của Phạm Duy…Tôi hay hát chung với Anh Ngọc, Ngọc Long, Duy Trác, Mộc Lan, Tâm Vấn . . Khi ấy Tâm Vấn chưa phải danh ca. Bà có lối hát riêng nhún nhảy rất lẳng lơ, gợi cảm mà giới trẻ rất thích, nên các thanh niên chết mê mệt.


Từ năm 1955 đến năm 1970 tôi vừa làm ca sĩ và nhạc sĩ. Đến năm 1970, tôi quyết định giải nghệ không hát nữa, để chuyên tâm sáng tác. Ngoài ra, tôi chơi violon cho các nơi để sống. Tôi kéo violon và làm cho đài phát thanh Sài Gòn được 10 năm. Mỗi hợp đồng họ trả 200 đồng, sau lên 250 đồng. Ngày được 2 hợp đồng, có 500 rồi, mà ngày nào cũng có việc làm. Độc thân, thuê gác 500, cơm tháng 5000 một tháng, vừa đủ sống. Tôi cùng làm với nhạc trưởng Võ Đức Tuyết, nhạc sĩ Nguyễn Quí Lãm, Đặng văn Hiền đánh violon, thổi sáo.


TTT: Trước năm 75, Chú là một nhạc sĩ chuyên nghiệp hay nghiệp dư ? Chú có đi quân dịch không?


TK: Tôi là một nhạc sĩ chuyên nghiệp cho các đài phát thanh và đánh nhạc trong các ban nhạc quân đội hay tâm lý chiến. Khi họ gọi nhập ngũ tới lứa tuổi 20 thì tôi 21 tuổi, họ gọi 22, thì tôi 23, đều quá tuổi nhập ngũ. Cho đến khi Tổng Động Viên Tết Mậu Thân, các công chức làm trong đài phát thanh phải đi học quân sự năm tuần. Tôi bị gọi tham gia binh đoàn trừ bị để đến khi nếu có biến, cộng sản tiến chiếm đài phát thanh thì mình cũng biết bắn súng để giữ đài.


www.vietbao.com

No comments:

Post a Comment